Nhiều năm trước khi Thế chiến thứ II nổ ra, người Đức đã nhìn thấy được tiềm năng lớn của máy bay sử dụng động cơ phản lực được phát minh bởi Hans Joachim Pabst von Ohain từ tận năm 1936. Sau chuyến bay thử nghiệm của chiếc phản lực cơ đầu tiên trên thế giới - Heinkel He 178, Đức quyết định đưa loại động cơ đẩy mới này vào sử dụng cho máy bay chiến đấu hiện đại của mình.
Heinkel He 178
Thế là dự án P.1065 được thành lập sau khi Bộ hàng không Đức (RLM) yêu cầu các công ty trong nước tạo được một chiếc máy bay có thể bay trên 1 tiếng với tốc độ ít nhất là 850km/h. Tiến sĩ Waldemar Voigt dẫn đầu nhóm thiết kế, còn giám đốc phát triển của Messerschmitt đảm nhận chức vụ giám sát cho toàn dự án.
Tháng 4 năm 1939, Messerschmitt bắt đầu tiến hành vẽ ra những kế hoạch và thiết kế đầu tiên. Lúc này bản vẽ rất khác so với chiếc máy bay ra đời sau này vì động cơ khí đó sẽ gắn ở sau đuôi, nhưng tới tháng 6 năm 1939 thì bản vẽ chuyển thành hai động cơ gắn hai đầu cánh.
Việc phát triển lúc này bị trì hoãn vì các vấn đề kĩ thuật liên quan tới động cơ. Do động cơ được chuyển từ nhà máy của BMW đến cơ sở lắp ráp khá lâu nên Messerschmitt phải dời động cơ xuống bên dưới cánh để đảm bảo rằng các linh kiện khác có thể được sản xuất và lắp ráp trước, không làm trễ thời gian sản xuất một chiếc máy bay. Nó cũng giúp công ty dễ bảo trì chiếc phi cơ này hơn. Ngoài ra, vì động cơ phản lực BMW 003 nặng hơn dự tính nên cánh phải nghiêng 18.5 độ để thích ứng với thay đổi về tâm trọng lực, vậy là tốn thêm thời gian thay đổi thiết kế. Người Đức cũng không tìm được hợp kim có điểm nóng chảy đủ cao để chống chịu lại nhiệt độ cao khi bay, vấn đề này tới sau thế chiến II cũng chưa được giải quyết triệt để.
Chưa hết, nhiều tướng và quan chức cấp cao cũng tin rằng Đức có thể dễ dàng thắng cuộc chiến chỉ với những máy bay thông thường nên họ không đổ nhiều tiền vào cho dự án. Trong số đó có Hermann Göring, người đứng đầu binh chủng không quan của Đức. Ông đã cắt giảm số kĩ sư tham gia phát triển động cơ phản lực xuống chỉ còn 35 người trong tháng 2/1940, nhiều tháng trước khi một bản mock up bằng gỗ được hoàn thiện. Vì sự chậm trễ trong phát triển động cơ mà việc sản xuất máy bay bị chậm đi đáng kể.
Chiếc Me 262 đầu tiên bay thành công hoàn toàn bằng động cơ phản lực vào ngày 18/7/1942 với 2 động cơ Jumo 004, trước đó trong đợt thử nghiệm tháng 11/1941 động cơ của BMW 003 đã bốc cháy nên không được chọn.
Giữa năm 1943, Adolf Hitler xem Me 262 như một chiếc chiến đấu cơ chuyên đánh các mục tiêu mặt đất cũng như kiêm nhiệm thả bom chứ không chỉ là một chiếc máy bay phòng thủ đánh chặn. Tốc độ cao của chiếc máy bay này có thể vượt qua hàng rào phòng thủ của quân đồng minh trong trận chiến ở Pháp. Sự chỉ đạo của Hitler đã dẫn đến việc người Đức tập trung vào phát triển một biến thể mới của Me 262 nên lại càng làm chậm quá trình sản xuất chiếc máy bay này.
Albert Speer, bộ trưởng sản xuất khí tài đạn dược, cho rằng chính Hitler là người đã chặn việc sản xuất hàng loạt Me 262 trước khi chấp thuận vào đầu năm 1944. Hitler không chấp nhận luận điểm của các kĩ sư rằng chiếc máy này sẽ hoạt động hiệu quả hơn ở vai trò là một chiếc đấu cơ, ông khăn khăn sử dụng nó làm máy bay ném bom để trả đũa quân đồng minh. Theo Speer, Hitler nghĩ rằng tốc độ cao của Me 262 khiến nó không thể nào bị tấn công và nó sẽ bay ở cao độ cao thẳng đến mục tiêu rồi quay về.
Willy Messerschmitt, một trong những người lập ra công ty Messerschmitt và cũng là người đã tham gia thiết kế chiếc máy bay cực kì thành công Bf 109, nói với Hitler rằng chiếc Me 262 có thể được điều chỉnh để mang bom. Một phần vì lúc đó Messerschmitt cũng đang muốn thắng cuộc đua sản xuất máy bay chiến đấu - ném bom với hai đối thủ khác là Arado Ar 234 và Dornier Do 335. Đến tháng 5/1944, Hitler ra lệnh phải chuyển đổi Me 262 thành máy bay chiến đấu - ném bom nhưng các tướng và chỉ huy bên dưới đã cố hết sức để giữ nguyên thiết kế ban đầu và chỉ có vài chục chiếc được chỉnh sửa theo lệnh của Hitler. Tuy vậy vẫn có nhiều biến thể Me 262 ra đời, ví dụ như phiên bản gắn radar, phiên bản ném bom, phiên bản trinh sát, phiên bản 2 ghế ngồi để tập luyện, phiên bản chuyên bay đêm...
Quảng cáo
Tháng 7/1944, những chiếc Me 262 đầu tiên bắt đầu đi vào biên chế. Trận chiến đầu tiên của Me 262 là vào ngày 25/7/1944 khi một chiếc Me 262 tấn công máy bay Mosquito của Hoàng gia Anh trong một chiếc dịch trinh sát ở thành phố Munich tuy 5 đợt đánh chặn đều không thành công.
Đơn vị Me 262 đầu tiên, Kommando Nowotny, được dẫn dắt bởi Walter Nowotny, vẫn gặp nhiều khó khăn khi điều khiển chiếc máy bay này. Nowotny bị giết vào năm 1944 khi cố gắng tiếp cận một chiếc B-24 của Mỹ. Một đơn vị khác thành lập dưới sự chỉ huy của Galland đã có nhiều tiến bộ nhưng Me 262 vẫn rất khó kiểm soát ngay cả với những phi công có nhiều kinh nghiệm nhất. Đức thậm chí còn phải phát triển những chiến thuật đánh riêng cho Me 262 do nó bay quá nhanh và có thể đánh máy bay quân đồng minh không hiệu quả nếu chỉ làm theo chiến thuật dành cho máy bay cánh quạt cũ. Khi đó máy bay sẽ phải lộn vòng như đi tàu lượn trước khi tấn công các máy bay bảo vệ rồi mới đánh tới máy bay ném bon của đồng minh.
Sau đó, càng lúc càng có nhiều chiếc Me 262 cất cánh hơn. Ghi nhận đã có 542 chiếc máy bay chiến đấu của quân đồng minh bị bắn hạ bởi Me 262, trong khi phi đội của Đức chỉ mất khoảng 100 chiếc trong chiếc đấu. Me 262 bay nhanh hơn chiếc P-51 Mustangs của Mỹ tới 190km/h.
Galland cũng nói thêm rằng các đợt tấn công liên tục của quân đồng minh vào kho xăng cũng là một trong những nguyên nhân hạn chế khả năng vận hành của Me 262. Đến cuối cuộc chiếc, Me 262 thường được kéo bằng ngựa ra đường băng để tiết kiệm nhiên liệu. Lúc nhà máy của Messerschmitt bị phá hủy, Đức tiếp tục sản xuất chiếc máy bay phản lực này trong rừng nhưng có nhiều chiếc phải nằm trơ trọi ra đó vì động cơ không bao giờ tới kịp để gắn vào. Có 1.443 chiếc Me 262 đã được sản xuất nhưng chỉ khoản 300 chiếc được đưa vào đánh nhau, phần còn lại bị rơi khi tập luyện hoặc bị bom của quân đồng minh phá hủy.
Quảng cáo
Đến cuối năm 1945, Không lực Đức hoạt động không còn hiệu quả nữa vì các trận đánh của quân đồng minh đã khiến xăng, nguồn cung cấp nói chung bị thiếu hụt, thiếu luôn cả lính đủ chất lượng để lái máy bay. Một tiểu đoàn Me 262 vẫn còn đánh tới gần cuối chiến tranh thế giới thứ hai dưới sự chỉ huy của Galland.
Đáng chú ý, ngày 30/3/1945, một chiếc Me 262A-1 (ảnh dưới) đã được Hans Fay - phi công thử nghiệm của Messerschmitt - đào ngũ và giao nộp cho quân đội Mỹ. Chiếc máy bay này được lắp ráp tại nhà máy Schwabisch-Hall-Hessental và không được phủ sơn ngụy trang vì B-24 của Mỹ đã phá nát những xưởng sơn gần đó. Sau đó quân Mỹ đem chiếc máy bay này về thử nghiệm trên đất mẹ của mình vào đến ngày 20/8/1946 thì nó bị rớt khi đang bay gần Xenia, Ohio.
Tính đến nay, chỉ còn 7 chiếc Me 262 nằm rải rác trong các viện bảo tàng trên khắp thế giới (số liệu từ Bảo tàng hàng không Washington D.C). Một số chiếc Me 262 khác thì vẫn có thể bay được nhưng xài động cơ của General Electrics (Mỹ) và chủ yếu đã được làm lại nhiều yếu tố.
Tham khảo: Defense Media Network, Wikipedia