Tham dự Tech Lounge

Tham dự Tech Lounge


Âm nhạc Brazil: Samba và những nét đẹp văn hóa

AudioPsycho
7/8/2019 11:2Phản hồi: 51
Âm nhạc Brazil: Samba và những nét đẹp văn hóa
Âm nhạc của Brazil vô cùng đa dạng và đầy màu sắc hệt như nền văn hóa của đất nước này. Lấy nhạc samba làm ví dụ, không ai là không nghĩ ngay đến Brazil khi nhìn thấy những điệu nhảy đầy mê hoặc đó. Điệu nhảy samba luôn xuất hiện trong những lễ hội Carnival, biểu tượng quốc tế của đất nước Brazil. Được đặt trong thể loại World Music, nhạc samba là sự pha trộn của các giai điệu sôi nổi và bước nhảy điêu luyện của các vũ công, ngay lập tức thu hút sự chú ý của khán giả ngay từ những giây đầu tiên.

Sơ lược về Brazil


tinhte-brazil-samba-1.jpg
Brazil
Đất nước Brazil nằm ở phía đông và miền trung Nam Mỹ, sở hữu mức dân số khoảng 200 triệu người và là quốc gia có diện tích lớn thứ 5 trong khu vực, cũng như đông dân thứ 5 trên thế giới. Vì điều kiện khí hậu, phần đông dân số của Brazil tập trung ở dải bờ biển phía đông, trong đó có hai thành phố nổi tiếng là Rio de Janeiro và São Paulo. Người dân Brazil sử dụng tiếng Bồ Đào Nha làm ngôn ngữ chính, tuy nhiên còn có thêm khoảng 150 ngôn ngữ bản địa được sử dụng bởi cộng đồng dọc lưu vực sông Amazon. Do chính sách đồng hóa của Bồ Đào Nha, khoảng 45% dân số Brazil là người đa chủng tộc, phân ra thành mulattoes (gốc Phi và châu Âu) và mestizos (gốc châu Âu và bản địa), ngoài ra còn có người da đen, người bản địa, Lusitania và người châu Âu. Dân số đông đảo của Brazil phần nào cũng làm nó trở nên khác biệt với các quốc gia hậu thuộc địa khác.

Tôn giáo chính của Brazil là Công giáo La Mã, tiếp sau đó là Đạo Tin Lành và Candomblé (tôn giáo tâm linh có nguồn gốc từ châu Phi). Dĩ nhiên vẫn có một phần nhỏ theo tín ngưỡng Đông Phương (Eastern Orthodox), đạo Phật, đạo Hồi và Do Thái. Brazil cũng có nền kinh tế công nghiệp phát triển với dân số đô thị đạt 85% và có mức tăng trưởng khoảng 1%.


Lịch sử và văn hóa

Brazil thời tiền thuộc địa gồm nhiều bộ lạc đa dạng (như Tupi, Arawak, Carib, Gê...) cũng như có các nhánh văn hóa và ngôn ngữ khác nhau. Các bộ lạc này sống du mục và văn hóa của họ chủ yếu là truyền miệng, do đó chúng bị mất đi rất nhiều khi các nhà truyền giáo và những kẻ xâm lược chiếm thuộc địa đặt chân đến đây. Người Bồ Đào Nha bắt đầu định cư tại Brazil sau Hiệp ước Tordesillas (1494) của Giáo hoàng: Nhằm tránh xung đột giữa Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, Giáo hoàng đã chia một lằn ranh ở giữa Đại Tây Dương. Các nhà thám hiểm Bồ Đào Nha trong hành trình đến Ấn Độ đã "vô tình" tìm ra bờ biển Brazil ở phía đông lằn ranh Hiệp ước, và quyết định "tuyên bố sở hữu cho Bồ Đào Nha" với tên gọi Vera Cruz.

tinhte-brazil-samba-3.png
Hiệp ước Tordesillas
Các nhà truyền giáo Jesuit nhanh chóng đổ xô đến đây để đồng hóa tôn giáo của người bản địa thành Jesuit. Họ bất chấp lằn ranh Tordesillas và mở rộng ảnh hưởng của mình đến cả khu vực phía tây sông Amazon. Người Bồ Đào Nha do không có đủ nhân lực nên chỉ có thể lập thành các barrios (kiểu như các nhóm dân nhỏ) và tập trung vào thương mại, nông nghiệp và đồn điền. Khi các khu định cư bắt đầu mở rộng và thương mại phát triển, người Bồ Đào Nha chính thức đổ bộ vào Brazil để thiết lập lãnh thổ, khai thác bằng cách mua nô lệ người châu Phi và trục xuất Jesuit, thay vào đó là ủng hộ Giáo hội Công giáo La Mã. Điều này cũng làm hợp nhất tôn giáo vào tất cả các khía cạnh của đời sống văn hóa xã hội.

Sau cuộc xâm lược Bồ Đào Nha trong Chiến tranh Napoléon (1793-1815), hoàng tử nhiếp chính Dom João và chính quyền Bồ Đào Nha tạm thời được chuyển đến Rio de Janeiro. Sau khi tình hình lắng xuống và thủ đô được chuyển về Lisbon (1921), con trai của hoàng tử là Dom Pedro được giao lại các thuộc địa và tuyên bố độc lập (1822), lập nên Đế quốc Brazil (1822-1889) chú trọng phát triển ngành sản xuất cà phê. Sau khi chế độ nô lệ bị bãi bỏ (1888), các ông trùm buôn cà phê đã ủng hộ khơi mào một cuộc đảo chính (1889) nhằm giành quyền cai trị, đặt tên quốc gia là Cộng hòa Liên bang Độc Lập Brazil tuy nhiên lại đi theo hướng chuyên chế. Sau đó lại xảy ra thêm cuộc đảo chính quân sự do Eduardo Vargas lãnh đạo và áp dụng chính sách quân luật. Trong bối cảnh bất ổn này, quyền lực được trao cho người dân để mở đường cho nền dân chủ thực sự (1985). Brazil sau đó bắt đầu phát triển chóng mặt do lượng tài nguyên thiên nhiên dồi dào. Điều này dẫn đến nạn phá rừng nhiệt đới và các vấn đề xã hội không lường trước được.

Hiện nay Brazil đang có môi trường kinh tế và chính trị khó khăn, chủ yếu do suy giảm kinh tế đột ngột và lạm phát, cũng như thất nghiệp và sự phân hóa giàu nghèo. Ngoài ra sự xung đột sắc tộc cũng vẫn còn là một vấn đề nhức nhối.

Văn hóa âm nhạc


Những lằn ranh mờ

Quảng cáo



Lịch sử âm nhạc truyền thống của Brazil là những lằn ranh mờ giữa các yếu tố như: sự thiêng liêng và dơ bẩn; nông thôn và thành thị; văn hóa bản địa, Bồ Đào Nha (văn hóa Luso-Hispanic) và nét văn hóa châu Phi; hay giữa truyền thống, nghệ thuật cổ truyền và âm nhạc đương đại. Tuy vậy chính sự tương tác này đã giúp cho nền âm nhạc của Brazil mang một nét hoàn toàn riêng biệt không lẫn vào đâu được, và sự khác biệt này được định hình rõ nét nhất với nhạc samba.

Trước thời kỳ đồng hóa: Truyền thống bản địa, Bồ Đào Nha và nét văn hóa châu Phi

Trong lịch sử, âm nhạc truyền thống (trước thời kỳ đồng hóa) của Brazil phản ánh ba nét văn hóa riêng biệt gồm: văn hóa âm nhạc bản địa, âm nhạc của người định cư Bồ Đào Nha và âm nhạc của những người nô lệ châu Phi. Chính các nhà truyền giáo Jesuit và thực dân Bồ Đào Nha đã phá hoại các nền văn hóa bản địa, gọi chúng là "sự man rợ" và lấy cớ đó để đàn áp không thương tiếc. Các giáo sỹ Jesuit tuyên truyền những bài catholicautos (gần giống thánh ca) cho người bản địa, dạy họ học hát bằng tiếng Latin và tiếng Bồ Đào Nha cũng như học cách làm các nhạc cụ gỗ đánh phím và dây của châu Âu. Người bản địa học hỏi nhanh đến mức các giáo sỹ bắt đầu để họ hát luôn trong các buổi tuyên truyền, càng làm quá trình đồng hóa lan rộng mạnh mẽ hơn nữa. Các văn hóa bản địa có sẵn vì thế cũng thui chột nhanh hơn.

May mắn là một số cộng đồng người bản địa với quy mô lớn vẫn có thể tiếp tục duy trì truyền thống âm nhạc của riêng họ tận đến ngày nay, tuy nhiên không nhiều. Các cộng đồng này thường khá khép kín nên nét văn hóa truyền thống của họ cũng chưa thể nghiên cứu nhiều được. Các thể loại âm nhạc truyền thống của họ đa số tập trung ở các bài anh hùng ca, các bài ca cầu nguyện chữa bệnh, bài hát lễ hội hay chiến ca, sử dụng chủ yếu các nhạc cụ đơn sơ như sáo hay lục lạc. Lấy ví dụ trong văn hóa Suyá của High Xingu, bài hát được chia làm các phân đoạn ngére (lời hát chính) và sangére (lời cầu nguyện), sarén (lời hướng thoại) và kepérni (lời dẫn). Ngére nhấn mạnh vào giai điệu nhưng cũng không hề coi nhẹ giá trị của lời hát, đưa âm điệu hát trở thành yếu tố chính trong hầu như tất cả các khía cạnh như đời sống, xã hội và tinh thần của văn hóa Suyá. Nói cách khác, nó giống như một sự tồn tại không thể phủ nhận.

Nhiều cộng đồng người bản địa còn phát triển theo cách hợp nhất để hy vọng đồng hóa ngược nền văn hóa ngoại lai. Tupinambá (miền trung Brazil) là nhánh văn hóa ít chịu ảnh hưởng nhất bởi sự đồng hóa do các barrios của giáo sỹ Jesuit ở đây rất ít. Để né tránh đàn áp, họ đã kết hợp brão (kiểu hát đố) của mình vào cách hát của các bài ca đạo Cơ đốc và gây ảnh hưởng ngược đến văn hóa của người Bồ Đào Nha. Điều này giúp giữ lại phần nào các nét văn hóa đặc trưng của người bản địa.

tinhte-brazil-samba-4.jpg

Quảng cáo


Điệu nhảy tupinambá
Văn hóa Bồ Đào Nha bắt đầu có ảnh hưởng mạnh mẽ đến Brazil khi người định cư Bồ Đào Nha xây dựng những quán rượu. Xã hội bắt đầu phân hóa thành 3 cấp rõ rệt: trên cùng là các địa chủ người Bồ Đào Nha giàu có, ở giữa là những người lao động Bồ Đào Nha nghèo khổ và người lao động bản địa ở dưới cùng (trước khi có nô lệ châu Phi). Người lao động nghèo Bồ Đào Nha có văn hóa âm nhạc truyền thống của riêng mình, và họ mang chúng đến Vera Cruz. Các bài hát thể hiện đặc điểm âm nhạc điển hình của người Lusitania gồm kiểu hát đồng thanh (nguồn gốc Gregoria) hay các giai điệu sử dụng nhịp ghép như duplas (3/6), decimas, triple (3/4), compound (6/8 hay 9/8) được đánh bằng nhạc cụ dây (chủ yếu là viola). Các điệu đánh thông dụng nhất có thể nhắc đến là rasqueado hoặc punteando. Nội dung bài hát thường nói về các giá trị văn hóa và tâm linh, vụ mùa hay để tưởng nhớ người đã khuất. Ngoài ra còn có các nội dung lễ lạc (ví dụ Giáng Sinh), công việc (aboios, de roça, de gado), giải trí (romances, desfiados), tín ngưỡng (irmandades, folias de reis).

Âm nhạc của người bản địa tuy nhiên lại không bị đồng hóa quá nhiều bởi sự xuất hiện này, nói cách khác là hình như chúng tìm được điểm chung để có thể cùng tồn tại. Điều này có thể là do việc các giáo sỹ Jesuit sử dụng người bản địa trong các buổi ca diễn của mình. Lấy ví dụ trong folias de reis, hình ảnh những Magi nhận được các nhạc cụ từ Đức Mẹ Đồng Trinh Mary để đưa tin sự ra đời của chúa Jesus cũng tương tự với hình ảnh điệu nhảy cateretê dùng để tôn vinh Thánh Gonçalo của Amarante chơi đàn viola cứu rỗi linh hồn tội lỗi của những cô gái hành nghề mại dâm.

tinhte-brazil-samba-5.jpg
Điệu nhảy cateretê
Các bài hát là thế, nhưng điệu nhảy trong văn hóa Bồ Đào Nha lại nghiêng nhiều hơn về khía cạnh giải trí. Trong các lễ hội nhảy do địa chủ tổ chức cho công nhân của mình luôn xuất hiện điệu nhảy cateretê (nói trên), được hình thành bằng cách kết hợp các yếu tố văn hóa Bồ Đào Nha và nghệ thuật bản địa. Nhạc cụ được sử dụng gồm guaiá, afoxé... và kiểu vũ đạo escova (kết hợp nhảy vòng tròn Bồ Đào Nha và kiểu nhảy nhịp chân của người bản địa). Các lễ hội nhảy này chính là những sự kiện Carnival đầu tiên, nơi sự phân biệt giai cấp và giàu nghèo hoàn toàn tan biến. Người giàu sẽ hóa trang thành người nghèo để nhảy những điệu dân dã, trong khi người nghèo có cơ hội chơi các nhạc cụ quý tộc.

Lễ hội Carnival thực ra chính là sự cạnh tranh giữa những địa chủ giàu có với nhau, xem ai "thể hiện lòng nhân từ" nhiều hơn nhằm lôi kéo nhân công của đối thủ về làm việc cho mình, từ đó càng chứng tỏ được uy tín với đối tác hay cấp trên. Điều này vô hình chung càng khiến các lễ hội Carnival rầm rộ hơn theo thời gian, đến mức được cả thế giới công nhận như một nét văn hóa riêng của Brazil.

Bồ Đào Nha cũng có những điệu nhảy dành riêng cho mục đích tín ngưỡng hay tôn giáo, cụ thể như baile pastoril (nói về đề tài Giáng Sinh) hay cheganças (nói về đề tài đấu tranh tôn giáo).

tinhte-brazil-samba-6.jpg
Nhảy truyền thống batuque (thể loại umbigada)
Khi nô lệ da đen bắt đầu được đưa đến các thuộc địa của Bồ Đào Nha để trồng cà phê, những người này cũng mang theo văn hóa âm nhạc và nghệ thuật riêng của họ, phần lớn là Bantu, Yoruba hay Congo. Qua quá trình đồng hóa và thích ứng văn hóa, nghệ thuật truyền thống của những người nô lệ nhanh chóng phát triển thành các bài hát và điệu nhảy Brazil gốc Phi. Điệu nhảy tôn giáo candomblé rất đa dạng và phong phú, tuy nhiên được tôn sùng nhiều nhất là phân nhánh orixás (là điệu nhảy và hát khi cầu nguyện, sử dụng nhạc cụ trống atabaques và chuông agogo, hay các bộ gõ dân gian). Một số trường hợp ngoại lệ khác như các bài hát khi làm đồng, các điệu nhảy có pha võ thuật như capoeira, maculelê, hay các bài hát giải trí... cũng có sự kết hợp của nhạc cụ trống và bộ gõ.

Các điệu nhảy phổ biến nhất có thể được nhắc đến như batuque hay côco. Batuque thống trị ở vùng trung tâm và phía nam, chịu ảnh hưởng bởi văn hóa của Anh và Congo, là điệu nhảy cặp đôi với các động tác phức tạp và điêu luyện, trong khi lời hát thì đầy tính ngẫu hứng và thiên về nội dung trào phúng. Batuque sử dụng nhạc cụ chính là trống tambu, trống quinjenguematraca (một kiểu lục lạc). Côco thì thông dụng hơn ở vùng phía bắc, nổi bật với nhịp vỗ tay độc đáo (mô phỏng âm thanh của vỏ dừa), tuy nhiên đôi khi cũng có kèm thêm cả trống hay lục lạc để thêm phần sôi động. Điệu nhảy này ngẫu hứng hơn và thường được dùng để tổ chức trò chơi nhảy theo vòng tròn, với người trình diễn hay nhóm trình diễn bắt đầu nhảy khi được chỉ định.

Đồng hóa: Syncretic & Samba


Theo thời gian, ba phân nhánh văn hóa của người bản địa, Bồ Đào Nha và châu Phi bắt đầu hòa quyện lại và tạo thành một nền văn hóa chung, mang các nét tinh túy nhất để hợp thành samba. Samba của Brazil rất khác với samba trong văn hóa Mỹ vốn chỉ rút ra những điểm sơ lược từ nghệ thuật nguyên bản. Syncretic xuất hiện từ các khu mỏ và những lễ hội vùng nông thôn, được mang đến bởi các thợ mỏ khai thác vàng trong thời kỳ thịnh vượng nhất của Brazil. Âm nhạc lúc này được kết hợp từ các bài thánh ca của phương Tây với nét văn hóa bản địa, điển hình với tác phẩm của các nhà soạn nhạc như Jose Joaquim Emérico Lobo de Mesquita, Marcos Coelho Netto, Francisco Gomes da Rocha hay Ignácio Parreiras Neves. Khi thời kỳ khai thác kết thúc và kinh tế chú trọng hơn vào ngành cà phê, cộng đồng người lao động quay trở lại Rio de Janeiro và tiếp tục biến nơi này thành trung tâm văn hóa đô thị mới của đất nước.

Những nhạc sỹ nhanh chóng thích ứng và tạo ra các loại hình âm nhạc nghệ thuật phổ biến, trong đó có kiểu biểu diễn khêu gợi (cho cả khán giả nam lẫn nữ) gây tranh cãi trong suốt một thời gian dài. Người đầu tiên sáng tạo ra hình thức này là Sebastos Caldas Barbosa, tuy nhiên Jose Maurício Nunes Garcia và Antônio Carlos Gomes mới là người có công phát triển nó.


Samba de lenço
Loại hình âm nhạc giải trí mới gây tranh cãi là thế nhưng nó vẫn tồn tại nhờ sự bảo trợ của Đế chế Brazil (1822-1889) dưới quyền hoàng tử nhiếp chính Dom João, người vừa di tản từ Bồ Đào Nha đến Rio de Janeiro để tránh Chiến tranh Napoléon. Đoàn tùy tùng của ông cũng mang đến đất nước này những điệu nhảy châu Âu phổ biến nhất, kèm theo đó còn là những nhà soạn nhạc nổi tiếng như Francisco Manuel da Silva (người đã sáng tác quốc ca của Brazil) và Chiquinha Gonzaga (biên soạn O abre alas! cho Black Carnival 1899). Các điệu nhảy châu Âu như fandago hay polka cũng được bản địa hóa để hợp nhất với âm điệu Brazil và châu Phi, cũng như chịu thêm các ảnh hưởng từ văn hóa Bồ Đào Nha và Mỹ Latin sẵn có nơi đây.

Hình thức âm nhạc và văn hóa mới lúc đầu chỉ gói gọn bên trong tầng lớp thượng lưu, tuy nhiên sau đó dần lan đến giai cấp trung lưu và cả người lao động. Các nhóm nhảy bắt đầu biểu diễn trên đường phố, kèm theo giai điệu từ các nhạc cụ như sáo hay đàn dây biến thể từ guitar (cavaquinhos, viola...) Văn hóa âm nhạc nhờ đó được tiếp cận rộng hơn với công chúng, và tiếp tục chịu một số ảnh hưởng để biến đổi dựa trên thị hiếu người xem. Điều này cũng khiến cho âm nhạc có thể hòa nhập với người nghèo, hay người có đam mê âm nhạc nhưng không đủ khả năng kinh tế để học qua trường lớp chính quy. Âm nhạc còn làm xã hội phát triển và giúp mở rộng dân cư thành thị.

Ở các đồn điền cà phê, những người nông dân da trắng, dân bản địa và nô lệ da đen cũng tương tác và hòa nhập văn hóa, tạo nên hình thức nghệ thuật nguyên bản nhất của Brazil là samba. Kiểu hát theo vần bắt đầu xuất hiện trong điệu trống mang hơi hướm châu Phi, tạo nên các phân nhánh con như samba-lenço (miền trung và nam), samba campineiro (trung tâm São Paulo) và samba de roda (miền bắc). Samba-lenço sử dụng điệu nhảy umbigada theo phong cách batuque truyền thống, samba campineiro thì tập trung hơn vào kiểu nhảy theo nhịp ostinato (là kiểu nhảy samba đặc trưng hiện nay của Brazil) còn samba de roda thì được biểu diễn theo kiểu nhảy theo vòng tròn.

tinhte-brazil-samba-8.jpg Samba de roda

Những người nô lệ da đen lúc đầu bị phân biệt đối xử nặng nề nhưng sau đó do thiếu nhân công lao động nên họ được đối xử tử tế hơn một chút. Đến cuối thời kỳ cai trị của Bồ Đào Nha, những phân biệt đó càng nhẹ đi nhiều hơn và chính thức kết thúc khi chế độ nô lệ bị bãi bỏ (1888) cùng việc chính quyền thực dân Bồ Đào Nha bị lật đổ (1889).

Người da đen và dân bản địa (cả mestizo và mulatto) tuy được giải phóng khỏi xiềng xích nhưng điều tiếp theo là họ phải tìm cho mình một mái nhà và miếng ăn. Những người này đổ xô vào Rio de Janeiro và São Paulo để tìm chỗ ở và việc làm, hình thành nên những khu ổ chuột tồi tàn bao quanh thành phố đẹp đẽ. Trong những năm đầu sau giải phóng, phân biệt giai cấp xảy ra cực kỳ nghiêm trọng. Những người giàu có thì thưởng thức các hình thức giải trí thượng lưu, trong khi người nghèo thì chỉ có thể duy trì các loại hình truyền thống xuất phát từ nông thôn. Tầng lớp trung lưu (da trắng và một số người mestizo) thì liên kết với nhau để sáng tác và biểu diễn các hình thức âm nhạc mới, đáng nhắc đến nhất là nhạc sỹ nổi tiếng Heitor Villa-lobos.

Các khu ổ chuột xập xệ tuy nhiên vẫn có thể được xem là những "chiếc nồi lớn" để "nấu chảy và pha trộn" các hình thức nghệ thuật với nhau, trong đó gồm nghệ thuật của người bản địa, Bồ Đào Nha và văn hóa châu Phi với các điệu nhảy hay kiểu hát đa dạng. Tất cả chúng hòa quyện lại và tạo thành phong cách samba đô thị hiện đại. Các phân nhánh con gồm có samba de morro (sử dụng chủ yếu là bộ gõ), samba da cidade (sử dụng dàn nhạc riêng, còn gọi là citysamba và được du nhập văn hóa vào Mỹ), samba-canção (có nhịp chậm và truyền cảm hơn) hay samba carnivalesca (thông dụng nhất, được biểu diễn trong các lễ hội cả lớn và nhỏ). Samba carnivalesca chính là thứ mà hiện nay chúng ta gọi chung là samba như một nét văn hóa riêng của Brazil.

Nhạc samba thời kỳ đầu bị kiểm duyệt nội dung rất gắt gao (do mới giải phóng). Cảnh sát cũng thường tấn công và dẹp các buổi biểu diễn samba trong những khu ổ chuột.

tinhte-brazil-samba-12.jpg
Lễ hội Carnival (ngày nay)
Điều này tuy nhiên không làm các nghệ sỹ nản chí. Samba ngày càng trở nên thông dụng hơn trong các lễ hội ở Rio và không biết từ lúc nào nó trở thành một hình thức nghệ thuật hợp pháp và chính quy. Các lễ hội Carnival cũng bùng nổ thành nhiều hình thức rầm rộ hơn như diễu hành, lễ hội hóa trang và khiêng kiệu với các màn trình diễn sinh động. Trong thời kỳ đầu thế kỷ 20, samba và các lễ hội Carnival được xem là văn hóa thượng lưu và người nghèo hay giai cấp thấp không được tham gia, tuy nhiên sau đó nó dần dần lan rộng đến tất cả các tầng lớp người dân. Phong cách samba trong các lễ hội Carnival có thể được mô tả đơn giản là sự kết hợp đan xen giữa những phần trình diễn ngắn và dài, sau đó thêm vào các phần trình diễn mạnh mẽ sôi động để tạo ấn tượng cho người xem. Điều này phần nào khiến khán giả có thể đoán trước và chờ đợi phần trình diễn mà mình thích nhất.

tinhte-brazil-samba-10.jpg
Vũ công gợi cảm trong các Carnival
Dàn nhạc trong các lễ hội Carnival cực kỳ đông đảo với khoảng 300 nhạc cụ gõ (trống, bộ gõ...) đủ sức làm rung chuyển các con đường mà lễ hội đi qua. Các bộ trống thường thấy nhất gồm repinique, tamborim, trống truyền thống cuíca, caixa, hay bộ gõ pandeiro, chocalho, reco-reco, chuông agogo, matraca... Phần vũ đạo cũng vô cùng đa dạng với các điệu nhảy bản địa, Bồ Đào Nha và châu Phi, tuy nhiên hiện nay đã được thu gọn lại chỉ còn những vũ đạo thông dụng và được nhiều người yêu thích nhất, cũng như phù hợp nhất với chủ đề của lễ hội.

Trường đào tạo chuyên môn samba (escola de samba) đầu tiên được thành lập vào năm 1928 mang tên Deixa Falar nhằm thúc đẩy và nuôi dưỡng truyền thống văn hóa nghệ thuật này, đồng thời hoạt động như một trung tâm xã hội và giáo dục cộng đồng. Nhiều trường đào tạo samba khác cũng được mở ra và sau đó bắt đầu tham gia các lễ hội Carnival nhằm nâng cao danh tiếng cho mình. Khi diễu hành và biểu diễn trong Carnival, các giám khảo sẽ đánh giá chất lượng đào tạo của trường thông qua các phần trình diễn điêu luyện, trang phục hay những đột phá nghệ thuật khác. Estação Primeria de Mangueira (thành lập năm 1929) và Portela (thành lập năm 1935) là hai trường xuất sắc nhất, nổi tiếng trong phong cách biểu diễn truyền thống lẫn hiện đại.

tinhte-brazil-samba-11.jpg
Một nhóm escola de samba
Một nhóm escola de samba sẽ gồm có: comissão de frente (phân chia thành từng chủ đề khác nhau), mestre-sala, porta-bandeira (nhảy truyền thống dân dã), baiana (samba theo gốc châu Phi với người biểu diễn là các phụ nữ lớn tuổi mặc trang phục truyền thống nhiều màu sắc), bateria (dàn nhạc trống), ca sỹ, ban nhạc đệm đàn dây (viola, rasgueados, kèn...) và xe diễu hành.

Hiện nay samba và lễ hội Carnival đã trở thành một văn hóa riêng của Brazil được cả thế giới công nhận. Thêm vào đó, samba cũng có tác động rất lớn đến nền âm nhạc của Brazil, lấy ví dụ với bossa nova (phát triển từ giai điệu jazz có trong samba-cançã), samba pagode (samba truyền thống trong các phong trào chống áp bức) và tropicália (samba có ảnh hưởng từ phong cách âm nhạc quốc tế, chủ yếu là phương Tây). Lễ hội Carnival thường kéo dài từ 4 ngày, rầm rộ nhất vẫn chính là Rio Carnival thu hút khách du lịch trên toàn thế giới đến Brazil.

51 bình luận
Chia sẻ

Xu hướng

samba samba samba
1462477B-581F-4F9A-9453-B6FF0D5D32EB.jpeg
A Hoàng
TÍCH CỰC
5 năm
@caffeinezzZ Cong lên từng cọng 😁
@caffeinezzZ nhỏ như em đỏ hợp với em :p:p:p
@caffeinezzZ mỡ
duongxm
ĐẠI BÀNG
5 năm
@caffeinezzZ Hình này đẹp nhất bài, kkk
Sơn Kao
TÍCH CỰC
5 năm
Cháy hết rồi em eiii.
Quá nóng bỏng, chết em rồi các bác ơi.
hoang dã
tieutu911
TÍCH CỰC
5 năm
Họ định dọn sạch rừng để làm sân múa lớn nhất thế giới ?
brownberry
ĐẠI BÀNG
5 năm
nhạc thì ok mỗi tội ý thức thì như... à mà thôi
JeremyBerrie
ĐẠI BÀNG
5 năm
nhiều thông tin mới và hay quá
Nino_Jen
ĐẠI BÀNG
5 năm
Động vật hoang dã chắc di tản ra thành phố!
Kiên Tống
ĐẠI BÀNG
5 năm
Văn hoá sắc màu
hnilqhuy
ĐẠI BÀNG
5 năm
nhắc tới Brazil. samba, ko thể ko nhắc tới bóng đá ...
https://www.facebook.com/Selecaoforever/
Nhân dịp cháy rừng Amazon xin giới thiệu về văn hoá và con người của Brazil chăng?
kuluoj
TÍCH CỰC
5 năm
@tuyen_nguyendinh tại nó mới coi người bí ẩn xong.
JizinT
TÍCH CỰC
5 năm
Phồn thực vãi, mông vếu ngồn ngộn... yêu quá bờ da xin ơi ;)
Thêm 1 lý do để ghét chỗ này
Mọi thứ của Brazil đều tuyệt vời, đặc biệt các điệu nhảy la tinh nóng bỏng, quyến rũ: samba, mamo, lambada,... trong lễ hội Carnival sexy đến nghẹt thở. Duy chỉ kiểm soát tai hoạ cháy rừng Amazon là chưa ổn thôi
Phucnguyen11
ĐẠI BÀNG
5 năm
Bộ phim Brazil này ai còn nhớ?
hoangthjen
ĐẠI BÀNG
5 năm
Bài viết đầu tư công phu, cảm ơn chủ thớt

Xu hướng

Bài mới









  • Chịu trách nhiệm nội dung: Trần Mạnh Hiệp
  • © 2024 Công ty Cổ phần MXH Tinh Tế
  • Địa chỉ: Số 70 Bà Huyện Thanh Quan, P. Võ Thị Sáu, Quận 3, TPHCM
  • Số điện thoại: 02822460095
  • MST: 0313255119
  • Giấy phép thiết lập MXH số 11/GP-BTTTT, Ký ngày: 08/01/2019