Cũng lâu mình chưa có bài viết gì về đồng hồ chia sẻ với anh em mê những cỗ máy thời gian. Cá nhân mình đổ lỗi cho mùa game đầu năm 2020, xảy ra trùng hợp thay là cùng thời điểm đại dịch COVID-19 bùng phát dữ dội. Hệ quả là rất nhiều người chọn game làm thú vui giải trí khi không được đi café, không được đi xem phim, cũng không được ra ngoài đường lượn lờ hóng mát. Cùng lúc từ tháng 3 đến giữa tháng 4, rất nhiều game hay ra mắt và được nhiều anh em quan tâm.
Để đền cho anh em mê đồng hồ, dưới đây là một bài viết rất hay về bộ máy đồng hồ, và bàn tay hoàn thiện của những nghệ nhân ảnh hưởng tới giá trị của chúng trong mắt người chơi đồng hồ ra sao.
Bài viết của Jack Forster, đăng trên Hodinkee ngày 20/4/2020.
Hãy bắt đầu với chiếc Heritage Manufacture Pulsograph của Montblanc. Bộ máy của nó được tạo ra tại Institut Minerva de Recherche en Haute Horlogerie, Villeret, Thụy Sỹ. Những cái đầu sành sỏi sẽ nhanh chóng nhận ra đó chính là mái nhà của công ty đồng hồ Minerva. Trong 20 năm qua, Minerva đã qua tay vài đời chủ, thay đổi định hướng vài lần, để rồi giờ đây đảm nhiệm việc sản xuất máy cho đồng hồ Montblanc.
Để đền cho anh em mê đồng hồ, dưới đây là một bài viết rất hay về bộ máy đồng hồ, và bàn tay hoàn thiện của những nghệ nhân ảnh hưởng tới giá trị của chúng trong mắt người chơi đồng hồ ra sao.
Bài viết của Jack Forster, đăng trên Hodinkee ngày 20/4/2020.
Hãy bắt đầu với chiếc Heritage Manufacture Pulsograph của Montblanc. Bộ máy của nó được tạo ra tại Institut Minerva de Recherche en Haute Horlogerie, Villeret, Thụy Sỹ. Những cái đầu sành sỏi sẽ nhanh chóng nhận ra đó chính là mái nhà của công ty đồng hồ Minerva. Trong 20 năm qua, Minerva đã qua tay vài đời chủ, thay đổi định hướng vài lần, để rồi giờ đây đảm nhiệm việc sản xuất máy cho đồng hồ Montblanc.
Những chiếc đồng hồ Montblanc trang bị máy Minerva luôn tạo ra những phản ứng vô cùng tích cực. Bỏ qua những câu chuyện liên quan tới chủ sở hữu, tới định hướng kinh doanh, mà hãy chỉ để tâm đến tính mỹ thuật và tính năng của chiếc đồng hồ, máy của Minerva sản xuất luôn khiến dân mê đồng hồ trên thế giới háo hức, và có lẽ chính họ là một trong những cái tên còn giữ lại những giá trị lâu đời của ngành công nghiệp đồng hồ xa xỉ Thụy Sỹ.
Nhưng với trường hợp của Heritage Manufacture Pulsograph, phản ứng có thể sẽ trái chiều, vì thời thế đã thay đổi. Sẽ là bất ngờ nếu có người nói rằng bộ máy trong tấm hình anh em thấy ở trên không còn phản ánh đúng thời thế. Ấy vậy mà vẫn có những người như vậy. Họ là những cá nhân cho rằng ngành đồng hồ Thụy Sỹ phải biết thích ứng, phải kết hợp được cả tiến bộ công nghệ cơ khí để từ đó hoàn thiện tối đa khả năng hiển thị chính xác thời gian. Đối với họ, những bộ máy được hoàn thiện tỉ mẩn, tốn tổng cộng hàng trăm hàng nghìn giờ đồng hồ của bàn tay các nghệ nhân, không có nhiều giá trị sáng tạo đột phá ngoài việc chiều chuộng những người chơi hoài cổ, thủ cựu, lưu luyến những giá trị cũ.
Câu hỏi giờ đã rõ ràng, liệu bộ máy được hoàn thiện tỉ mỉ mặc định tạo ra một chiếc đồng hồ tốt? Hay một chiếc đồng hồ có bộ máy được tạo ra từ hệ thống máy cắt công nghiệp trở nên kém cỏi so với những sản phẩm đắt tiền? Câu hỏi thì đơn giản, nhưng để tìm ra câu trả lời thật sự chẳng dễ chút nào. Nó không chỉ liên quan tới tiến bộ công nghệ vật liệu, mà còn gắn liền với chính bản thân truyền thống và công dụng của đồng hồ cơ hàng trăm năm qua nữa.
Mọi người đều dùng khái niệm “movement decoration”, xin phép tạm dịch là trang trí bộ máy đồng hồ. Trang trí máy đã trở thành một môn nghệ thuật trưởng thành song hành với quá trình đồng hồ phát triển, từ quả quýt đến chiếc máy gọn gàng trên cổ tay người đeo. Những bộ máy đồng hồ để bàn sơ khai nhất được tạo ra từ gang thép, với kích thước khổng lồ. Với kích thước như vậy, đáng lẽ ra chúng nên được trang trí cẩn thận với hoa văn họa tiết, nhưng không, những bộ máy đó gần như vô cùng thô sơ:
Mọi thứ bắt đầu thay đổi khi đồng hồ để bàn trở nên nhỏ gọn dần, vừa vặn túi áo vest của những nhà quý tộc. Gang dần được đổi thành đồng thau và được mạ một lớp vàng mỏng để chống rỉ sét. Gần như ngay lập tức, thế hệ đồng hồ bỏ túi đầu tiên của nhân loại vào thế kỷ XV được các nghệ nhân trang trí hết sức cầu kỳ. Nhưng những hoa văn họa tiết đều tập trung vào “mặt tiền”: Mặt số, kim cọc và cả bộ vỏ nữa. Máy không ai nhìn thấy nên bị ngó lơ.
Quảng cáo
Đến thế kỷ XVI và XVII, bộ máy đồng hồ mới được để ý, và cũng rất nhanh trước khi các nghệ nhân thả sức sáng tạo để hoàn thiện những cỗ máy thời gian mang giá trị và công sức lao động vô giá của bàn tay con người. Khi ấy đồng hồ bỏ túi cũng không cần quá chính xác, và cũng chỉ là món đồ chơi cho cánh nhà giàu lắm tiền nhiều của khoe khoang với nhau. Nếu cần chính xác thì những tháp đồng hồ ở từng thành phố và đồng hồ để bàn sẽ đảm nhiệm. Hệ quả là những cỗ máy nhỏ xíu trở thành những tác phẩm nghệ thuật đúng nghĩa đen:
Trùng hợp thay, đẳng cấp của những nghệ nhân không chỉ phát huy cùng sự phát triển của đồng hồ, mà còn ở cả vũ khí nữa. Những khẩu súng thời ấy cũng chẳng khác gì những tác phẩm điêu khắc, thứ được truyền tới tận ngày hôm nay khi những giá trị cũ vẫn được gìn giữ bởi những cái tên lâu đời như Beretta, Remington, Holland & Holland hay Webley & Scott...
Giai đoạn đầu tiên của trào lưu trang trí máy bắt đầu thay đổi khi hai thành tựu kỹ thuật của đồng hồ được phát minh ra. Thứ nhất là việc con người khám phá ra balance spring của bộ máy, và thứ hai là lever escapement thay thế cho verge escapement để điều tiết năng lượng từ lò xo chính lưu năng lượng để chạy đồng hồ. Thế kỷ XVIII đến, đồng hồ bỏ túi đã có sai số trong vòng 1 phút mỗi ngày, và sai số ngày càng giảm xuống khi linh kiện bên trong được sản xuất chính xác hơn. Cũng nhờ những thành tựu ấy, con người để tâm hơn tới việc trang trí sao cho chiếc đồng hồ không chỉ chạy đúng giờ, mà còn đẹp mắt nữa. Cái tên cần được nhắc đến ở giai đoạn này chính là Abraham-Louis Breguet. Những cỗ máy của nghệ nhân gốc Phổ đến thế kỷ XXI vẫn đầy tính nghệ thuật, nhưng song hành với đó là sự chính xác và tỷ mẩn trong từng chi tiết.
Quảng cáo
Trong hình trên đây là chiếc No. 1176 mà Breguet tạo ra cho nhà quý tộc Ba Lan, Bá tước Stanislaus Potocki, và nó chính là hiện thân của sự cân bằng giữa vẻ đẹp mỹ thuật và sự chính xác của thời gian. Chính vì lẽ đó, trông nó không hoa hòe hoa sói như những tấm ảnh trên đây anh em được chiêm ngưỡng, mà thay vào đó độ chính xác của từng chi tiết được cố gắng đẩy đến mức tối đa. Chi tiết đồng thau được mạ vàng hơ lửa, ốc thép nung xanh để chống lại mọi khả năng gây ra rỉ sét, bố cục thì hoàn mỹ, lấy tourbillon làm trụng tâm. Nó là những giá trị đến giờ có lẽ rất nhiều hãng đồng hồ cũng không dám với tới vì lý do chi phí sản xuất.
Cũng vì thế mà chiếc đồng hồ quả quýt này chẳng giống những món đồ chơi đắt tiền nhưng đa phần là vô dụng khi nhanh chậm có khi đến vài phút mỗi ngày ra mắt những thế kỷ trước. Nói vậy liệu có đồng nghĩa với việc Breguet là một trí tuệ thiên mạnh về tính kỹ thuật của một chiếc đồng hồ? Có lẽ là không.
Bằng chứng là kiệt tác mang tên No. 160 ra mắt năm 1827, hay còn gọi là chiếc Breguet “Marie Antoinette” vì chủ sở hữu của nó chính là nữ hoàng cuối cùng của nước Pháp, trước khi cách mạng nổ ra năm 1789. No. 160 cũng có số phận sóng gió như người chủ nhân của nó. Năm 1983, nó bị Na'aman Diller đánh cắp khỏi bảo tàng L.A. Mayer Institute for Islamic Art, Jerusalem, và mãi đến năm 2007 mới tìm lại được. Không phải ngẫu nhiên mà có người gọi No. 160 là “áng thơ đồng hồ”, lý do mời anh em tự chiêm ngưỡng trong tấm hình dưới đây. Đến năm 2017, các nghệ nhân ở Breguet tái tạo lại chiếc “Marie Antoinette” và đặt cho bản copy này cái tên No. 1160:
Đến đây câu trả lời đã phần nào rõ ràng. Nỗ lực tăng tính thẩm mỹ (hoàn thiện) và nỗ lực tăng độ chính xác (độ bền) trong một chiếc đồng hồ luôn song hành cùng nhau, chứ không phải hai khái niệm tách biệt và đối kháng đến cực hạn. Để kết thúc cuộc tranh luận, có lẽ những dòng viết của Walt Odets đầu những năm 2000 mô tả rất đúng lý lẽ của cả hai phe:
“Khi nói đến chuyện hoàn thiện và độ bền, chỉ có một thực tế rõ ràng cần được chỉ ra. Nếu mỗi phần trong bộ máy đều có công dụng riêng, thì ắt có thể sẽ có phần hoạt động chống lại phần khác bên trong chiếc đồng hồ. Hoàn thiện có tốt thì chiếc đồng hồ mới bền được. Những bề mặt được hoàn thiện kém có thể bù khuyết bằng chất bôi trơn, nhưng về lâu về dài độ hao mòn của chúng sẽ rất đáng kể, và thậm chí còn có thể gây ra hao mòn cho những linh kiện khác nữa.”
Nếu đã đồng ý với luận điểm đó, chúng ta có thể tiếp tục với quá trình phát triển của kỹ nghệ hoàn thiện bộ máy đồng hồ kể từ giữa thế kỷ XX (khi Thế chiến thứ II kết thúc) đến nay phải không anh em 😁
Hãy tiếp tục với chiếc đồng hồ quả quýt tourbillon của Jaeger-leCoultre, ra mắt năm 1946. Dù nó không phải một chiếc đồng hồ đeo tay nhỏ nhắn, nó vẫn là một ví dụ đáng nể về độ hoàn thiện của đồng hồ giữa thế kỷ XX. Tuyệt đại đa số chi tiết bên trong đều được làm và hoàn thiện bằng bàn tay con người. So với những cỗ máy phía trên, có thể nó không đẹp, nhưng sự hoàn thiện được tạo ra để khiến chiếc đồng hồ hoạt động hoàn hảo cả trăm năm sau này, cùng lúc giữ được mức độ chính xác đáng nể khi hiển thị thời gian:
Nó có đẹp không? Dĩ nhiên có, nhưng tất cả những gì các nghệ nhân bỏ công thực hiện đều để đảm bảo chiếc đồng hồ hoạt động hiệu quả nhất có thể: Thép được đánh bóng để có bề mặt sáng như gương, những con ốc cũng vậy… Rất khó để có một chiếc đồng hồ đem lại cảm giác tương tự, trừ phi nó được chăm chút tỉ mỉ từng đường nét, từng chi tiết bởi bàn tay của người nghệ nhân. Không một cỗ máy thời gian nào được làm ra từ thiết bị tự động hóa tạo ra trải nghiệm giống như thế này. Và từ đó, cái giá của chúng cũng ở trên trời, hầu hết vì khoảng thời gian và công sức con người phải bỏ ra để hoàn thiện chúng.
Những nếu nói về những chiếc đồng hồ quả quýt giữa thế kỷ XX, gần như không có đối thủ “cửa dưới” để chúng ta tiện so sánh, vì nhân loại đã bước sang thời kỳ đồng hồ đeo tay. Đây mới là lúc mọi so sánh trở nên hấp dẫn, khi con người tạo ra những phương thức chế tác dùng máy móc, nhanh hơn, rẻ hơn và hiệu quả hơn. Đến một thời điểm, máy tiện thép tạo ra được những chi tiết chính xác tới mức đánh bóng hoàn thiện bằng tay không còn cần thiết để chiếc đồng hồ hoạt động hiệu quả nữa. Bước ngoặt thứ hai chính là khi những chiếc đồng hồ có thể được sản xuất hàng nghìn hàng vạn chiếc mỗi đơn hàng để đáp ứng nhu cầu thị trường. Một trong số những ví dụ kinh điển là Caliber CH 27 của Lemania, ra mắt những năm 1950:
Hơn 70 năm sau, CH 27 vẫn tồn tại. Nó trở thành Caliber 321 dùng trong Omega Speedmaster, và là nền tảng để phát triển Caliber 1142 trong Cornes de Vache của Vacheron Constantin cũng như bộ máy dùng trong chính những chiếc chronograph của Patek Philippe.
Cùng một bản vẽ thiết kế, cùng tính năng, cùng cơ chế hoạt động, nhưng khác biệt giữa chất lượng hoàn thiện ở mức trung bình và mức cao được mô tả hoàn hảo trong tấm hình dưới đây, với Omega Speedmaster và Vacheron Constantin Cornes de Vache. Giá của chiếc Omega chỉ bằng 1/10 so với Vacheron Constantin:
Nếu như Cornes de Vache phải hoàn hảo ở từng đường nét, thì Speedmaster không hề kém cạnh. Nó vẫn hoạt động chính xác đến đáng nể, nhưng chất lượng hoàn thiện không thể sánh bằng. Bù lại, Speedmaster ở một cái tầm giá dễ tiếp cận hơn rất nhiều, còn những người có thể mua được Vacheron Constantin, thiết nghĩ trên thế giới không nhiều. Mức độ hoàn thiện của bộ máy đồng hồ cũng trở thành tiêu chuẩn của một vài tầm giá của thế giới đồng hồ cơ.
Vẫn là nền tảng Lemania CH 27, nhưng dưới đây là bộ máy CH 27-70 bên trong Patek Philippe 3970. Khác biệt có lẽ đã quá rõ ràng:
Nhờ một ví dụ với 3 chiếc đồng hồ ở ba tầm giá trên đây, mà câu hỏi “mông đẹp” có đồng nghĩa với chiếc đồng hồ tốt giờ có lẽ phụ thuộc hoàn toàn vào việc chính bản thân một bộ máy có tốt hay không trước. Lemania CH 27 là huyền thoại, và phải có nền tảng tốt như bộ máy đó, thì những bước hoàn thiện bằng bàn tay con người mới xứng đáng được.
Ở một thái cực khác, Omega, Rolex hay thậm chí Grand Seiko, vì mức giá của chúng, không có điều kiện nhận được những sự chăm sóc của bàn tay con người như Patek Philippe hay A. Lange & Sohne. Nhưng điều đó đâu có đồng nghĩa Seamaster, Submariner hay Spring Drive Snowflake là những chiếc đồng hồ tệ? Không hề. Khi ấy chiếc đồng hồ thuần túy đem lại giá trị về mặt công năng, sai số chỉ chưa đầy 5 giây mỗi ngày.
Giờ đây, hoàn thiện bằng tay thường dành cho những thương hiệu ở đỉnh của kim tự tháp hàng xa xỉ, nơi những thương hiệu nổi tiếng ấy giữ khách bằng chất lượng và mức độ tinh xảo của sản phẩm. Bù lại, những cái tên tầm trung lại có những tiến bộ công nghệ đáng nể, như balance spring silicone chống từ tính, hay thậm chí là bộ máy lai Spring Drive trứ danh của người Nhật Bản, thứ mà chưa có một thương hiệu nào bắt chước nổi. Quay trở lại với chiếc Montblanc đã dẫn chúng ta đến với chủ đề bài viết này. Nó không có silicone balance spring, cũng chẳng có những công nghệ ghê gớm gì như của Seiko hay Omega, nhưng nó vẫn khiến mọi người kiêng nể.
Ngay cả Seiko đôi khi vẫn giữ vững những giá trị truyền thống, bằng chứng là Credor Eichi II, với mặt số vẽ men bằng tay, cùng bộ máy spring drive lên cót tay đẹp chẳng thua gì A. Lange & Sohne Saxonia. Với những mẫu đồng hồ được sản xuất chỉ vài chục hay vài trăm chiếc, việc lưu giữ truyền thống bỗng tạo ra thứ cá tính riêng hút hồn những chủ nhân sở hữu chiếc đồng hồ. Còn ở khía cạnh khác, những chiếc đồng hồ giá rẻ nhưng khả năng hoạt động ổn định lâu dài bền bỉ, dù có "mông" không đẹp bằng những kiệt tác tiền tỷ vẫn được hàng chục triệu người yêu mến, đơn giản vì chúng ta vẫn cần đến chúng.
Theo Jack Forster/Hodinkee