ASUS ROG Zephyrus G GA502IU là một trong những chiếc laptop đầu tiên sử dụng vi xử lý Ryzen Mobile 4000 series (Renoir), cụ thể là con Ryzen 7 4800HS. Thế hệ vi xử lý này sở hữu nhiều cải tiến về kiến trúc (Zen 2), tiến trình (7nm) và nhiều tính năng tối ưu hiệu năng, điện năng, nhiệt năng và pin so với thế hệ trước. Mình đã có loạt bài nói về những điểm mới này dưới đây còn trong bài này thì chúng ta sẽ cùng nhau kiểm chứng:
Nói qua về ROG Zephyrus G GA502IU (mình gọi ngắn là Zephyrus G15) thì đây là một mẫu laptop chơi game tầm trung với thiết kế vay mượn từ dòng Zephyrus cao cấp nhưng sử dụng giải pháp APU Ryzen Mobile của AMD thay vì Intel, từ đó giá của những phiên bản ROG Zephyrus G GA502 ở tầm dưới 30 triệu, rẻ hơn đáng kể so với dòng ROG Zephyrus M hay Zephyrus S chạy Core i.
Về thiết kế và chất lượng hoàn thiện thì mình cho rằng con ROG Zephyrus G15 GA502I này vẫn như bản cũ, hoàn thiện tốt với vỏ nhôm xen lẫn với nhựa cứng, các cạnh vuông vức, bản lề nổi 2 bên chắc chắn. Độ mỏng 20 mm cùng trọng lượng tầm 2 kg cho một con máy 15,6" cấu hình cao đối với mính là lý tưởng. Tuy nhiên, để giảm giá thành cũng như phần nào khiến chiếc máy này dễ nhận biết hơn so với những Zephyrus M hay S thì ASUS đã cắt giảm một số yếu tố như logo ROG tại nắp máy không có đèn, bàn phím cũng không có đèn RGB, chỉ đèn trắng, vỏ thì nhiều nhựa hơn. Anh em không thích màu mè sẽ cảm thấy những thứ mình vừa nêu không cần thiết nhưng đối với đa số anh em game thủ cũng như đã nghĩ đến việc chọn dòng máy ROG thì vẫn ưu tiên RGB hơn.
Hệ thống các cổng kết nối trên chiếc máy này là đủ xài, đủ kết nối tốc độ cao như 3 cổng USB 3.0 (5 Gbps) (USA-A), 1 cổng USB 3.2 Gen2 (10 Gbps) (USB-C) hỗ trợ trình xuất DisplayPort và có thể sạc được qua cổng này với cục sạc USB-C dù tốc độ chậm, 1 cổng HDMI 2.0b, jack 3,5 mm và cổng RJ-45 cho kết nối mạng dây. Kết nối không dây bên trong máy là Wi-Fi 6 và Bluetooth 5.0. Thứ thiếu sót là khe đọc thẻ SD và webcam … dòng máy này ASUS đã lược bỏ webcam để khiến viền màn hình nhỏ hơn nhưng thật sự đây vẫn là một trang bị tiêu chuẩn, rất cần thiết đối với các bạn sinh viên khi phải học online trong mùa COVID-19 này. Đây là nhược điểm của dòng Zephyrus G15 luôn.
Nói qua về ROG Zephyrus G GA502IU (mình gọi ngắn là Zephyrus G15) thì đây là một mẫu laptop chơi game tầm trung với thiết kế vay mượn từ dòng Zephyrus cao cấp nhưng sử dụng giải pháp APU Ryzen Mobile của AMD thay vì Intel, từ đó giá của những phiên bản ROG Zephyrus G GA502 ở tầm dưới 30 triệu, rẻ hơn đáng kể so với dòng ROG Zephyrus M hay Zephyrus S chạy Core i.
Về thiết kế và chất lượng hoàn thiện thì mình cho rằng con ROG Zephyrus G15 GA502I này vẫn như bản cũ, hoàn thiện tốt với vỏ nhôm xen lẫn với nhựa cứng, các cạnh vuông vức, bản lề nổi 2 bên chắc chắn. Độ mỏng 20 mm cùng trọng lượng tầm 2 kg cho một con máy 15,6" cấu hình cao đối với mính là lý tưởng. Tuy nhiên, để giảm giá thành cũng như phần nào khiến chiếc máy này dễ nhận biết hơn so với những Zephyrus M hay S thì ASUS đã cắt giảm một số yếu tố như logo ROG tại nắp máy không có đèn, bàn phím cũng không có đèn RGB, chỉ đèn trắng, vỏ thì nhiều nhựa hơn. Anh em không thích màu mè sẽ cảm thấy những thứ mình vừa nêu không cần thiết nhưng đối với đa số anh em game thủ cũng như đã nghĩ đến việc chọn dòng máy ROG thì vẫn ưu tiên RGB hơn.
Hệ thống các cổng kết nối trên chiếc máy này là đủ xài, đủ kết nối tốc độ cao như 3 cổng USB 3.0 (5 Gbps) (USA-A), 1 cổng USB 3.2 Gen2 (10 Gbps) (USB-C) hỗ trợ trình xuất DisplayPort và có thể sạc được qua cổng này với cục sạc USB-C dù tốc độ chậm, 1 cổng HDMI 2.0b, jack 3,5 mm và cổng RJ-45 cho kết nối mạng dây. Kết nối không dây bên trong máy là Wi-Fi 6 và Bluetooth 5.0. Thứ thiếu sót là khe đọc thẻ SD và webcam … dòng máy này ASUS đã lược bỏ webcam để khiến viền màn hình nhỏ hơn nhưng thật sự đây vẫn là một trang bị tiêu chuẩn, rất cần thiết đối với các bạn sinh viên khi phải học online trong mùa COVID-19 này. Đây là nhược điểm của dòng Zephyrus G15 luôn.
Bàn phím và bàn rê thì mình không đánh giá cao trên Zephyrus G15. Dù rằng layout khá là ngon, rộng rãi thoải mái nhưng hành trình ngắn, độ nẩy phím không cao từ đó giảm cảm giác gõ lại khá giống với những chiếc laptop văn phòng mỏng nhẹ. ASUS hoàn toàn có thể làm cái bàn phím này tốt hơn bởi máy vẫn dày đến hơn 20 mm cơ mà.
Bàn rê thì khá ổn, bề mặt ít ma sát, 2 phím chuột tích hợp, cảm giác nhấn tốt nhưng kích thước lại quá nhỏ, không gian dành cho bàn rê vẫn còn nhiều. Bàn rê hỗ trợ driver Microsoft Precision Touchpad cho tốc độ phản hồi cao, hỗ trợ đầy đủ các cử chỉ của Windows 10.
Về phần màn hình thì chiếc máy này có màn hình IPS 144Hz 3 ms, tương phản tốt và phù hợp với nhu cầu giải trí, chơi game. Độ bao phủ dải màu của màn hình không lớn, nhìn qua là thấy màu hơi nhạt nên có thể xác định chiếc máy này không phù hợp để dùng làm đồ họa, chỉnh sửa ảnh. ASUS cho biết hãng thực tế có thể trang bị màn hình IPS cao cấp hơn nhưng thành phần này cũng đội giá máy lên khiến nó khó tiếp cận với người dùng ở phân khúc này hơn.
Tuy nhiên, thứ mình quan tâm nhất trên chiếc máy này là Ryzen 7 4800HS - con APU Mobile dùng kiến trúc Zen 2 7nm đang được đánh giá rất cao với 8 nhân 16 luồng, xung tối đa 4,2 GHz, 12 MB cache (L2 + L3) nhưng TDP chỉ 35 W. Thực tế HS là biến thể với TDP thấp hơn so với Ryzen 7 4800H tiêu chuẩn với TDP 45 W. AMD trước đó cho mình biết rằng những hãng nào sử dụng các phiên bản HS của dòng Renoir trên sản phẩm thì sản phẩm phải được đồng thiết kế bởi AMD nhằm đảm bảo hiệu năng, từ đó mang lại trải nghiệm tốt nhất cho người dùng.
Cấu hình của chiếc Zephyrus G15 mình dùng như sau:
- CPU: AMD Ryzen 7 4800HS;
- GPU: Nvidia GeForce GTX 1660 Ti Max-Q;
- RAM: 16 GB DDR4-3200 dual-channel;
- SSD: 512 GB PCIe NVMe SSD;
- Pin: 76 Wh.
Quảng cáo
Trong lần test này, mình có thu thập kết quả của một số chiếc máy khác dùng các vi xử lý như Ryzen 7 3750H - đây chính là đời trước của Ryzen 7 4800HS và cũng được trang bị trên con Zephyrus G15 năm ngoái, bên cạnh đó còn có các đối thủ như Core i7-9750H (6 nhân 12 luồng, 2,6 - 4,5 GHz, 12 MB cache, 45 W), Core i9-9980HK (8 nhân 16 luồng, 2,4 - 5 GHz, 16 MB cache, 45 W) và Core i7-10875H (8 nhân 16 luồng, 2,3 - 5,1 GHz, 16 MB cache, 45 W). Kết quả benchmark mình thống kê từ một số mẫu máy đã được review trên Notebookcheck.
Phần mềm ASUS Armory trên Zephyrus G15 cho phép chỉnh nhiều chế độ hiệu năng là Performance và Turbo. Ở chế độ Turbo thì xung đa nhân sẽ được đẩy lên đến 4,1 GHz, đơn nhân đến 4,3 GHz nhưng do giới hạn nhiệt, nó sẽ không duy trì mức xung này lâu mà sẽ tự động đưa về mức xung thấp hơn. Mình test cả 2 thiết lập Performance và Turbo với các bài test hiệu năng thuần như Cinebench, 3DMark Physics và CPU Test.
Anh em có thể thấy với Cinebench thì sự chênh lệch về hiệu năng giữa 2 chế độ Performance và Turbo không nhiều. Đây là bài test tuyến tính, tập trung vào khả năng xử lý render với các tập lệnh SSE2 hay AVX-512, Ryzen 7 4800HS khi chạy các bài test dù ở chế độ Performance hay Turbo thì đều cắt xung toàn nhân xuống còn 3,4 GHz nên điểm số multi-core gần như tương đương nhau, điểm đơn nhân thì chênh lệch đôi chút.
Chuyển qua bài test Fire Strike Physics và Time Spy CPU, lần lượt đánh giá hiệu năng của CPU khi chơi game DirectX 11 và 12 thì sự khác biệt giữa Performance và Turbo rõ ràng hơn.
Ở bài test Fire Strike Physics mô phỏng game DirectX 11, khi theo dõi biểu đồ xung thì mình nhận thấy với chế độ Performance, Ryzen 7 4800HS ban đầu đạt xung 4,215 GHz và trong 4 giây sau giảm xuống còn 4 GHz, tiếp tục giảm xuống còn 3,867 - 3,942 GHz trong 4 giây tiếp theo sau đó duy trì khá ổn định ở mức xung 3,767 GHz và 3,817 GHz. Ở chế độ Turbo, mức xung ban đầu là 4,1 GHz và giữ liên tục trong 6 giây ở mức xung này nhưng đến giây thứ 8, mức xung còn 3,742 GHz và tiếp tục giảm xuống 3,518 MHz và duy trì ở mức xung 3,55 GHz thay vì là gần 3,8 GHz như chế độ Performance.
Quảng cáo
Với bài test Time Spy CPU thì nó mô phỏng game DirectX 12, hầu hết các tựa game mới hiện tại đều đã hỗ trợ API DX12 thành ra chế độ Turbo lần này cho hiệu năng tốt hơn so với Performance trong cả 5 lần test. Khởi đầu đều là 4,2 GHz nhưng Performance sẽ duy trì mức xung ổn định ở 3,5 GHz trong khi Turbo sẽ nằm ở mức 3,65 - 3,7 GHz.
So sánh với các CPU đã nêu, có thể thấy điểm số của Ryzen 7 4800HS đã vượt xa Ryzen 7 3750H, ở bài test đa nhân Cinebench là gấp đôi bởi Ryzen 7 4800HS nay đã 8 nhân so với Ryzen 7 3750H là 4 nhân. So với các đại diện Intel thì Ryzen 7 4800HS cũng đã vượt xa Core i7-9750H với 6 nhân và ngang ngửa với các đối thủ 8 nhân của Intel. Ryzen 7 4800HS vẫn thua về xung đơn nhân - đây vốn là thế mạnh của các vi xử lý Intel bởi mức xung đã trên 5 GHz trong khi 4800HS chỉ ở 4,2 GHz.
3DMark cũng cho thấy diện mạo tích cực của Ryzen 7 4800HS so với các đối thủ Intel. Mình cũng rất bất ngờ về sự dẫn đầu của nó và khả năng là do nó mát hơn và giữ được mức xung cao khi thực hiện các bài test 3DMark trong khi các vi xử lý của Intel vẫn dùng tiến trình cũ, sẽ không thể mát như Ryzen 7 4800HS với 7nm.
Trải nghiệm thực tế với game, mình đã chơi một loạt các tựa game gồm Borderland 3, CoD: Warzone, CS:GO, Shadow of the Tomb Raider và The Division 2 thì đây là kết quả. Mình đã cố gắng tìm dữ liệu từ những chiếc laptop dùng cùng GTX 1660 Ti Max-Q TGP 60 W, ngoại trừ một chiếc máy dùng GTX 1660 Ti Mobile với TGP chuẩn 80 W, xung cao hơn nên sẽ mạnh hơn so với bản Max-Q.
Với những con số về tỉ lệ khung hình trên thì đến lúc này, Ryzen 7 4800HS đã hoàn toàn thuyết phục mình rằng AMD đã làm rất tốt với dòng Ryzen Mobile 4000 series. Kiến trúc Zen 2 tiến trình 7nm thật sự mang lại hiệu năng vượt trội, IPC cao hơn, số nhân nhiều hơn, tiến trình nhỏ hơn đã khiến Ryzen 7 3750H trở thành … đồ cổ 😁. Như bảng trên, giữa 2 chế độ Performance và Turbo đã cho sự khác biệt khá rõ ràng về tỉ lệ khung hình, nhất là với CS:GO - trên 165 fps trung bình thì nó lại càng có lý để chơi trên màn hình 144 Hz có adaptive sync của Zephyrus G15.
So với các đối thủ như Core i7-9750H thì Ryzen 7 4800HS đã ngang ngửa hay thậm chí là nhỉnh hơn trong một số game. Hiệu năng/giá thành đã vượt Core i7-9750H bởi cùng một mẫu máy Zephyrus G15, nếu anh em chọn bản Core i7-9750H + GTX 1660 Ti thì giá sẽ gần 40 triệu chứ không còn ở 30 triệu như bản Ryzen.
Về nhiệt độ, sau khi stress test bằng AIDA64 ở chế độ Performance thì Ryzen 7 4800HS có mức nhiệt độ trung bình ở 82,6 độ C, xung toàn nhân ở 3,3 GHz, tối đa 4,2 GHz. Ở chế độ Turbo, Ryzen 7 4800HS có nhiệt độ trung bình 84,8 độ C, xung toàn nhân ở 3,4 GHz, tối đa ở 4,3 GHz. Nhìn chung đây là mức nhiệt độ rất ổn với một con CPU 8 nhân, vẫn chưa tới 90 độ C khi stress.
Tuy nhiên, khi chơi game, nhiệt độ vẫn có thể cao hơn khi chơi game. Mình đã dùng phần mềm ASUS Armory trên điện thoại để theo dõi theo thời gian thực và screenshot (do MSI Afterburner không lấy được dữ liệu từ sensor on-die của Ryzen 7 4800HS mà chỉ lấy dữ liệu từ GPU Vega 7 tích hợp nên không chính xác). Kết quả là Ryzen 7 4800HS ở chế độ Performance khi chơi Warzone chạm ngưỡng 87 độ C và không hơn nữa, GPU GTX 1660 Ti Max-Q cũng ở mức 79 độ C. Trong khi đó ở chế độ Turbo, nhiệt độ CPU lên đến 95 độ C. Thành ra mình nghĩ anh em khi chơi game không nên bật Turbo, chênh lệch fps không nhiều và hệ thống thì nóng hơn đáng kể. Thiết kế tản nhiệt của chiếc Zephyrus G15 cũng chưa tối ưu, nó vẫn có 1 ống đồng chính nối giữa CPU và GPU rời thành ra nhiệt của GPU ảnh hưởng một phần đến CPU.
Đây là trạng thái điện áp, xung và điện năng tiêu thụ của Ryzen 7 4800HS trong nhiều tình huống sử dụng khác nhau. Mình theo dõi từ mức không tải (Idle), đến mở 10 tab trình duyệt, chạy render Cinebench R20 hay chơi các tựa game ăn CPU như Metro exodus và Warzone ở cả 2 chế độ Performance và Turbo. Lúc này mình nhận ra công nghệ AMD Smart Shift đã chủ động can thiệp, thay đổi điện áp nhằm tối ưu hiệu năng và hiệu quả tản nhiệt của hệ thống theo tải. Anh em có thể thấy khi chơi Metro Exodus hay CS:GO, nếu chơi ở Turbo thì hệ thống sẽ ưu tiên đẩy xung GPU GTX 1660 Ti để khiến nó cho khung hình cao hơn đồng thời cắt điện áp Ryzen 7 4800HS để khiến nó mát hơn, ưu tiên tản nhiệt cho GPU thay vì duy trì điện áp cho cả 2.
Pin thì sao? Chiếc Zephyrus G15 có pin 76 Wh và mình đã sử dụng nó để làm việc: từ 2:13 chiều ở 98%, độ sáng màn hình mình để 75%, chế độ pin là Better Battery, dùng các tác vụ như Microsoft Edge, OneNote, mở Facebook liên tục và Messenger. Đến 3:20 chiều, pin còn 75% tức là tầm 1 tiếng 7 phút. Mình tiếp tục dùng làm việc đến 4:59 chiều thì còn 39% và đóng máy không dùng nữa, chuyển sang máy bàn. Như vậy trong 2 tiếng 45 phút, dùng làm văn phòng thì máy mất 60% pin. Sáng hôm sau, 7:18 sáng mình thấy pin còn 36%, như vậy trong thời gian Sleep, pin chỉ tụt 3% và sau 40 phút làm việc với những tác vụ tương tự, pin còn 20%. Mình mở một clip dài 10p xem thì mất 5% pin nữa. Như vậy là 50 phút mất 15%. Nếu tính tổng thời gian sử dụng từ 97% pin đến 15% là hơn 3 tiếng rưỡi, khá ổn cho một chiếc máy cấu hình cao.
Sạc lại cũng khá nhanh, mình cho sạc lại từ 8:11 sáng ở mức 15% thì đến 9:04 sáng, pin đã đầy đến 93% và đến 9:58 là 99%. Như vậy trong vòng 1 tiếng 21 phút thì pin đã đầy lại.
Như vậy anh em đã có thể hình dung được con Ryzen 7 4800HS giờ đây mạnh ra sao, nó không còn chuối như thời Ryzen 7 3750H nữa và nó thật sự sẽ khiến anh em ngạc nhiên và suy nghĩ lại về vi xử lý trên laptop của AMD. Lợi thế đầu tiên vẫn là hiệu năng/giá, vận hành cũng mát mẻ hơn và thời lượng pin đã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, vấn đề của AMD vẫn là làm sao thuyết phục các hãng làm laptop thiết kế máy tốt hơn, trang bị phần cứng cao cấp hơn cho máy. Những chiếc laptop chạy Ryzen hiện tại vẫn đi kèm với những giải pháp GPU không quá cao cấp, những phiên bản RTX 2070, 2080 vẫn đang được các hãng làm laptop trang bị cùng với vi xử lý Intel. Nếu như laptop chạy Ryzen Mobile 4000 series cũng đi combo với GPU mạnh như vậy thì thị trường sẽ cạnh tranh hơn và người dùng sẽ được lợi hơn. Về phần Zephyrus G15, nó là một con máy rất ổn để sử dụng làm việc hay chơi game trong tầm giá 30 triệu. Thiết kế và trang bị có phần chưa ngon cho lắm, mình đã chê về bàn phím nhưng về cấu hình thì nó đủ để đáp ứng nhiều nhu cầu, anh em có thể tận dụng Ryzen 7 4800HS để render hay GTX 1660 Ti Max-Q cũng đủ mạnh để chơi được nhiều tựa game cao cấp hiện tại.