Ngày 6/3/1974, đối với nhiều người không phải là một ngày mang tính lịch sử. Nhưng trên thực tế, đối với các khoa học gia, ngày hôm ấy đánh dấu một bước ngoặt rất lớn đối với lịch sử loài người. Đó là ngày mà tuyên bố của thủ tướng Pháp lúc bấy giờ, Pierre Messmer, có lẽ đã góp phần nào đó cứu trái đất khỏi biến đổi khí hậu. Tuyên bố của ông Messmer khi ấy là đưa ra kế hoạch xây dựng 80 nhà máy điện hạt nhân ở Pháp trong thập niên 80, và đến đầu thế kỷ XXI là 170 nhà máy điện hạt nhân. Hiện giờ 75% lượng điện năng tiêu thụ ở Pháp đến từ các nhà máy điện hạt nhân. Họ muốn đến năm 2035, con số này sẽ giảm còn 50%, bù lại bằng năng lượng tái tạo, như điện mặt trời và điện gió.
Thực tế thì quyết định của thủ tướng Pháp lúc ấy được đưa ra để giải quyết trực tiếp tác động của cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, khi Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ Ả Rập thực hiện những hành động đồng loạt khiến giá dầu thô tăng gấp 4 lần. Khi ấy, hầu hết các nhà máy điện ở Pháp đều là nhiệt điện vận hành bằng năng lượng hóa thạch, nhưng Pháp lại không có giếng dầu nào hết. Thủ tướng Messmer và tổng thống thời ấy là Georges Pompidou đã quyết định nước Pháp phải tách khỏi sự phụ thuộc của dầu mỏ bằng cách chuyển sang sử dụng năng lượng hạt nhân.
Gần 50 năm sau nhìn lại, có lẽ quyết định đó là một trong những điều chứng minh mạnh mẽ nhất tham vọng muốn khác biệt và tạo ra sự khác biệt của người Pháp. Dù rằng năng lượng hạt nhân là thứ đầy tiềm năng trong những năm 1950, và hầu hết các nước phát triển đều có cho mình lò phản ứng hạt nhân phục vụ mục đích thử nghiệm, những tiến bộ trong quá trình nghiên cứu biến nguồn tài nguyên gần như vô tận này trở thành thứ phục vụ vào mục đích hòa bình của con người lại không ổn định chút nào, vì thời ấy, hễ nhắc đến “hạt nhân” hay “phóng xạ”, con người mặc định nghĩ đến những quả bom nguyên tử với sức công phá hủy diệt.
Chỉ trước hôm thủ tướng Messmer đưa ra tuyên bố trên hai ngày, người đồng cấp ở Anh, Edward Heath suýt chút nữa thì mất ghế thủ tướng vì những người thợ mỏ than đình công, khiến nền kinh tế nước Anh rơi vào trạng thái đình đốn. Thủ tướng Anh cố gắng tìm kiếm giải pháp thay thế cho than, cùng lúc phải cứu vãn chương trình phát triển lò phản ứng hạt nhân thất bại của Anh, phải nhờ đến người hàng xóm phía bên kia eo biển Manche để tìm sự giúp đỡ. Hai quốc gia láng giềng hồi sinh tổ chức Euratom, và từ đó việc hạt nhân hóa ngành điện Tây Âu được khởi động.
Thực tế thì quyết định của thủ tướng Pháp lúc ấy được đưa ra để giải quyết trực tiếp tác động của cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, khi Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ Ả Rập thực hiện những hành động đồng loạt khiến giá dầu thô tăng gấp 4 lần. Khi ấy, hầu hết các nhà máy điện ở Pháp đều là nhiệt điện vận hành bằng năng lượng hóa thạch, nhưng Pháp lại không có giếng dầu nào hết. Thủ tướng Messmer và tổng thống thời ấy là Georges Pompidou đã quyết định nước Pháp phải tách khỏi sự phụ thuộc của dầu mỏ bằng cách chuyển sang sử dụng năng lượng hạt nhân.
Gần 50 năm sau nhìn lại, có lẽ quyết định đó là một trong những điều chứng minh mạnh mẽ nhất tham vọng muốn khác biệt và tạo ra sự khác biệt của người Pháp. Dù rằng năng lượng hạt nhân là thứ đầy tiềm năng trong những năm 1950, và hầu hết các nước phát triển đều có cho mình lò phản ứng hạt nhân phục vụ mục đích thử nghiệm, những tiến bộ trong quá trình nghiên cứu biến nguồn tài nguyên gần như vô tận này trở thành thứ phục vụ vào mục đích hòa bình của con người lại không ổn định chút nào, vì thời ấy, hễ nhắc đến “hạt nhân” hay “phóng xạ”, con người mặc định nghĩ đến những quả bom nguyên tử với sức công phá hủy diệt.
Chỉ trước hôm thủ tướng Messmer đưa ra tuyên bố trên hai ngày, người đồng cấp ở Anh, Edward Heath suýt chút nữa thì mất ghế thủ tướng vì những người thợ mỏ than đình công, khiến nền kinh tế nước Anh rơi vào trạng thái đình đốn. Thủ tướng Anh cố gắng tìm kiếm giải pháp thay thế cho than, cùng lúc phải cứu vãn chương trình phát triển lò phản ứng hạt nhân thất bại của Anh, phải nhờ đến người hàng xóm phía bên kia eo biển Manche để tìm sự giúp đỡ. Hai quốc gia láng giềng hồi sinh tổ chức Euratom, và từ đó việc hạt nhân hóa ngành điện Tây Âu được khởi động.
Nhưng sự kiện diễn ra ở châu Âu khiến ứng cử viên tổng thống Mỹ Jimmy Carter khuyến khích việc hợp nhất ngành năng lượng ở Mỹ. Những công ty lớn có mảng nghiên cứu lò phản ứng hạt nhân bắt đầu vận động hành lang để người Mỹ từ bỏ dùng than sản xuất điện. Một trong những nhà vận động hành lang ở nước này nghĩ ra cụm từ nghe rất kêu: “nu-power”. Và đến năm 1978, sự cố nhỏ, được kiểm soát thành công ở lò phản ứng số 2 nhà máy điện Three Mile Island tại bang Pennsylvania ngày 28/3/1979 đã thuyết phục được công chúng rằng, điện hạt nhân là công nghệ an toàn với con người.
Dần dần, mọi người bắt đầu ngừng lo lắng rằng các quốc gia lấy điện hạt nhân làm lý do che đậy việc mua plutonium về làm giàu để sản xuất bom nguyên tử. Điều bất ngờ là, không phải Anh, không phải Mỹ, cũng không phải Pháp, mà Ấn Độ mới là quốc gia khiến định kiến nói trên của con người thời bấy giờ biến mất. Năm 1985, Trung tâm nghiên cứu hạt nhân Bhabha (BARC) ở Mumbai phát triển thành công lò phản ứng thorium. Thorium không chỉ có trữ lượng lớn, phục vụ tốt cho nhu cầu sản xuất điện của thế giới, mà nguyên tố này cũng khó làm giàu đến mức sử dụng được trong bom nguyên tử như uranium. Không chỉ tạo ra được bước nhảy mang tính cách mạng cho ngành điện hạt nhân, mà người Ấn Độ còn chuyển dịch được cả cán cân kinh tế thế giới, ganh đua được cả với Trung Quốc.
Bước ngoặt mà BARC tạo ra vào năm 1985 đã giúp kích thước những lò phản ứng hạt nhân trở nên nhỏ hơn, an toàn hơn và hoạt động hiệu quả hơn. Điện hạt nhân không chỉ khiến điện than trở nên lỗi thời, nó còn đang thay thế khí tự nhiên để sưởi ấm con người vào mùa đông, cũng như phần nào thúc đẩy tốc độ phát triển chóng mặt của những chiếc ô tô điện, khi những phương tiện giao thông chẳng cần dùng tới xăng dầu nữa.
Tất cả những thành tựu ấy khiến Gustaf Arrhenius, một nhà nghiên cứu đã nghỉ hưu ở đại học California, Mỹ thực hiện một thí nghiệm giả tưởng, nghĩ ra một giả thuyết về tác động của điện hạt nhân với môi trường. Gustaf chính là cháu nội của Svante Arrhenius, nhà hóa học Thụy Điển lỗi lạc, người đã khai sinh ra ngành điện hóa vào cuối thế kỷ XIX. Ngay từ thời điểm cách mạng công nghiệp vẫn còn ở thời kỳ đỉnh cao, Svante Arrhenius đã nhận ra rằng, khí thải tạo ra từ việc đốt than có thể giữ nhiệt từ mặt trời trong bầu khí quyển, khiến khí hậu trái đất nóng lên. Theo tính toán trong đầu Gustaf Arrhenius, nếu không có những bước ngoặt trong nghiên cứu điện hạt nhân, con người vẫn đốt than, đốt dầu và khí tự nhiên để sản xuất điện từ thập niên 70 đến nay, thì trái đất hiện giờ sẽ nóng hơn 0.5 độ C so với con số hiện giờ. Đến năm 2050, khí hậu trái đất trung bình sẽ nóng hơn 2 độ C, và đến năm 2100 sẽ là 6 độ C, nếu con người cứ tiếp tục xài thả ga nhiên liệu hóa thạch.
Chưa cần đến mức ấy, chúng ta đã thấy băng ở hai cực tan với tốc độ đáng sợ, thời tiết thì năm sau nóng hơn năm trước, còn nếu trung bình nóng hơn 6 độ, thì tuyệt đại đa số bề mặt đất liền trên trái đất sẽ trở thành sa mạc. Khi ấy chúng ta mới thấy kế hoạch của thủ tướng Pháp gần 50 năm về trước có ích đến đâu. Dù rằng con người còn rất nhiều việc phải làm để chống lại những hậu quả của biến đổi khí hậu, nhưng nền tảng điện hạt nhân với lượng khí thải nhà kính gần như bằng 0 là một trong những nền tảng quan trọng nhất, chí ít là cho đến khi con người được thuyết phục bởi mức độ an toàn của điện hạt nhân, sau những thảm họa từng xảy ra trước đó ở Chernobyl năm 1986 hay Fukushima năm 2011.
Theo The Economist