Có lẽ, không một món trang sức nào của người đàn ông lại kết hợp hoàn hảo được cả công năng lẫn thẩm mỹ như chiếc đồng hồ đeo tay. Và tương tự, cũng hiếm có món phụ kiện hay trang sức nam nào có được đông đảo người quan tâm và hâm mộ như chiếc đồng hồ cả. Giữa cái thời smartwatch và điện thoại di động hiển thị thời gian còn chính xác hơn cả đồng hồ cơ, hiển thị được cùng lúc nhiều múi giờ và có những tính năng chỉ có những chiếc đồng hồ triệu Đô mới làm được, đã có người nghĩ rằng, thế giới đồng hồ cơ sẽ dần biến mất, như những món trang sức phụ kiện khác như mắt kính đơn hay đai nịt kéo tất không để bị nhăn vậy.
Nhưng không, ở năm 2020, người ta vẫn tự hào với chiếc đồng hồ kim trên cổ tay, với cỗ máy cơ khí hiển thị thời gian mà đôi khi phải tiết kiệm nhiều năm ròng mới mua được.
Và thực tế thì, dù lịch sử ngành đồng hồ đã trải dài hàng trăm năm, nhưng lịch sử của chiếc đồng hồ đeo tay lại không dài đến mức đó. Tất cả bắt đầu với chiếc đồng hồ quả quýt anh em xem phim cổ hay nhìn thấy trong túi áo gilet của những quý ông. Giờ này anh em có bói ra cũng không thấy mấy người cầm đồng hồ quả quýt ra đường xem giờ nữa, nhưng chí ít đến cuối thế kỷ 19, “đàn ông là phải dùng đồng hồ quả quýt.” Còn đồng hồ đeo tay nhỏ nhắn giống như một món trang sức thay thế cho chiếc vòng đeo tay của các chị em. Thực tế thì cũng không chỉ là một quyết định về mặt thời trang, đồng hồ quả quýt cũng có một lý do rất thực dụng, khiến đàn ông lựa chọn:
Trước thế kỷ XX, chiếc đồng hồ xem giờ rất dễ bị những yếu tố ngoại cảnh tác động: Độ ẩm, nhiệt độ, bụi rất dễ lọt vào bên trong và ảnh hưởng tới từng cái bánh răng, lò xo, từng linh kiện bên trong, từ đó khiến đồng hồ bớt chính xác. Những người đàn ông khi ấy đều làm việc trong những môi trường lắm khói bụi, nhiệt độ cao, thậm chí vài người thì ở trong quân đội, ngành đường sắt hay những ngành đòi hỏi sự chính xác trong thời gian. Cũng vì thế, nhu cầu xem giờ chính xác của nam giới khi ấy cao hơn các chị em nhiều. Thời trang thì không thể nào phang thời tiết được, nên đồng hồ quả quýt không chỉ là lựa chọn về mặt thẩm mỹ, mà còn cả công năng nữa.
Có lẽ, ví dụ đầu tiên của một chiếc đồng hồ “đeo tay” là khi những người lính Anh Quốc ra trận, tham gia cuộc chiến tranh Miến Điện và xứ Boer cuối thế kỷ XIX. Trên cổ tay họ là chiếc vòng tay bằng da, có ngàm để lắp đồng hồ quả quýt lên đó. Nhờ vậy, những người lính không cần phải lôi đồng hồ từ trong túi ra nữa, mà nó nằm ngay trên cổ tay, xem giờ rất tiện lợi. Đến những năm 1890, vài công ty bắt đầu sản xuất và bán loại đồng hồ này ra thị trường, thậm chí đôi khi còn thêm thắt vài phụ kiện rất hữu ích như la bàn trên dây da để tìm đường chẳng hạn. Chúng thường được quảng cáo dưới cái tên đồng hồ “Campaign” hay “Service”, không chỉ hướng tới những người lính.
Những người lính Anh Quốc từ Miến Điện và Boer trở về vẫn tiếp tục đeo chiếc đồng hồ mà họ tin tưởng trên cổ tay. Và những người đàn ông khác, nhìn thấy những con người dám hy sinh vì Tổ quốc đeo một món đồ họ từng coi là “trang sức đàn bà”, nên cũng dần bắt chước đeo theo.
Jack London, tác giả hai tác phẩm kinh điển: Tiếng Gọi Nơi Hoang Dã, và Nanh Trắng.
Quảng cáo
Các hãng đồng hồ cũng rất nhanh nhạy với thị trường. Họ không chỉ sản xuất “đồng hồ quả quýt đeo được lên cổ tay”, mà vào cuối thế kỷ XIX, họ cũng bắt đầu nghiên cứu chế tạo những chiếc đồng hồ đeo tay đúng nghĩa, gọn gàng trên cổ tay người dùng. Một trong những cái tên đầu tiên ấy là Girard-Perregaux. Giờ anh em thấy đồng hồ Girard-Perregaux chỉ ở một góc khuất mà chỉ những người thực sự hâm mộ mới để tâm đến, và họ gần như lẩn khuất sau cái bóng của những cái tên nổi tiếng đương đại như Omega hay Hublot. Nhưng họ từng có quá khứ vô cùng hào hùng, với nhiều khách hàng tầm cỡ, như nữ hoàng Victoria, hay vua Farouk xứ Ai Cập. Girard-Perregaux là một trong những thương hiệu đầu tiên sản xuất đại trà đồng hồ đeo tay cho cánh nam giới, đặc biệt là cho những người lính thuộc Hải quân Hoàng gia Đức. Một cái tên khác vẫn tồn tại đến ngày hôm nay là Waterbury Clock Company, giờ anh em biết đến với cái tên Timex cũng làm điều tương tự, trong cùng khoảng thời gian ấy.
Đến năm 1907, Louis Cartier thiết kế một chiếc đồng hồ đeo tay cho người bạn của mình, phi công người Brazil Alberto Santos-Dumont. Dòng đồng hồ ấy đến giờ vẫn tồn tại và mang tên Santos, hay đầy đủ là Santos de Cartier:
Tuy nhiên thời kỳ ấy, doanh số của các hãng sản xuất đồng hồ đeo tay cho nam giới không ổn cho lắm. Cơ bản phần đông đàn ông vẫn muốn bên trong chiếc áo gilet của họ là một chiếc đồng hồ quả quýt lên cót tay lôi ra ấn bụp một cái bung nắp che để xem giờ, hoặc có chăng cũng chỉ mua đến dây wristlet để lắp đồng hồ quả quýt vào cổ tay.
Nếu nói là góp công thì sẽ hơi phũ phàng, vì tổn thất đối với nhân loại là không thể đong đếm được, nhưng thực sự hai cuộc Chiến tranh Thế giới đầu và giữa thế kỷ XX đã định hình lại cái nhìn của đồng hồ đeo tay trong mắt các anh em khi ấy.
Quảng cáo
Thế chiến thứ Nhất là nơi những cỗ xe tăng và khí cụ cơ giới lên ngôi, trong khi con người ở mỗi phe thì cố thủ trong những giao thông hào, với những trận chiến gần như không hồi kết. Và chiếc đồng hồ đeo tay cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc chiến ấy. Trước Thế chiến thứ Nhất, những đợt tấn công được cấp trên chỉ thị và các cánh quân phối hợp nhờ dấu hiệu để những người lính quan sát. Nhưng những trận chiến ở Thế chiến thứ Nhất có quy mô quá lớn, và những người lính đều trốn dưới giao thông hào, nên việc tạo ra những dấu hiệu trực quan không phải lựa chọn tối ưu. Vì thế, đồng hồ được sử dụng để những người lính cùng đồng bộ thời gian, qua đó thực hiện việc tấn công một cách hiệu quả nhất thông qua thời điểm đã nhất trí trước đó.
Để làm được điều này, những sĩ quan Anh Quốc tiếp tục dùng chiếc đồng hồ đã theo họ trên chiến trường Boer và Miến Điện: Cái đồng hồ quả quýt gắn vào dây da. Nhưng rồi vài người bắt đầu chọn những chiếc đồng hồ đeo tay được thiết kế và sản xuất để chịu đựng những tác động trên chiến trường, mặt số đồng hồ có cả khung kim loại bảo vệ mặt kính, hay những tinh chỉnh khác về độ bền. Nhưng cùng lúc, những cỗ máy thời gian ấy vẫn giữ được thiết kế đầy tinh tế và gọn gàng. Những công ty đồng hồ ở Anh cũng bắt đầu “chạy theo trend” để sản xuất những chiếc “trench watch” phục vụ những người đang ăn dầm ở dề trong từng con giao thông hào ngoài chiến tuyến.
Trong số những nhà sản xuất đồng hồ đó, có cả Hans Wilsdorf. Anh em sẽ nhớ và quen thuộc với thương hiệu ông khai sinh ra hơn là chính cái tên của nhà sản xuất đồng hồ lừng lẫy:
Trench watch không được một công ty duy nhất sản xuất, và những sĩ quan hay người lính muốn trang bị đồng hồ đeo tay để ra trận cũng phải tự mua vì quân đội không cung cấp chúng như những trang bị tiêu chuẩn. ĐIều này tạo ra một thị trường trench watch bùng nổ, với những sản phẩm mà ngày hôm nay anh em hoàn toàn có thể lên eBay tậu về một chiếc làm đồ sưu tầm.
Cuộc cạnh tranh bán đồng hồ giữa thời chiến tranh này cũng giúp cho những đột phá về công nghệ và cơ khí hiện diện trên chiếc đồng hồ. Kim giờ và vạch số được quét một lớp radium dạ quang để nhìn giờ trong bóng tối. Mặt kính thủy tinh thông thường được thay thế bằng mặt kính tinh thể khó vỡ để chịu lực tốt hơn. Chân lug để lắp dây da được kéo thẳng ra từ vỏ case đồng hồ, nhìn thẩm mỹ và hiệu quả hơn nhiều. Mặt số sứ được thay bằng mặt số kim loại. Cuối cùng và có lẽ là quan trọng nhất, chính là case đồng hồ có nắp lưng chống nước và bụi, giúp đồng hồ vận hành chính xác hơn.
Giống hệt như những cựu chiến binh trở về từ Boer hay Miến Điện, những cựu chiến binh Thế chiến thứ Nhất trở về với chiếc trench watch trên tay, và công chúng cũng bắt chước theo, hệt như vài chục năm về trước. Và đến năm 1930, doanh số đồng hồ đeo tay ở Anh Quốc lần đầu vượt mặt đồng hồ quả quýt.
Nãy giờ chúng ta mới chỉ nói về châu Âu, cụ thể hơn là nước Anh. Vậy còn Mỹ thì sao? Tốc độ thay thế từ đồng hồ quả quýt sang đồng hồ đeo tay ở đây chậm hơn nhiều. Ngày 9/7/1916, tờ The New York Times có một bài viết đưa ra câu hỏi mà họ không thể lý giải, vì sao những người châu Âu bắt đầu đeo những chiếc đồng hồ giống như trang sức phụ nữ. Những cỗ máy thời gian chuyển từ túi áo gilet sang cổ tay mọi người, và xu hướng này rõ ràng phải có một cách giải thích nào đó.
Bài viết hơn trăm năm trước của người Mỹ viết như thế này: “Gần đây, người Mỹ coi đồng hồ đeo tay giống như một trò đùa không hơn không kém. Những danh hài đã sử dụng chúng như một công cụ gây cười cho khán giả.” Nhưng giờ nó không còn là trò cười nữa: “Dịch vụ điện thoại và tín hiệu từ xa, vốn đã trở thành thứ vô cùng quan trọng trong chiến tranh hiện đại đã khiến việc đeo đồng hồ trở thành một việc cần thiết đối với những người lính. Cách thực dụng duy nhất là đeo đồng hồ lên cổ tay, nơi thời gian có thể được quan sát nhanh nhất có thể, thứ mà đồng hồ quả quýt không thể làm được.”
Những cải tiến trong công nghệ liên lạc đã giúp quân đội có thể hiệp đồng tác chiến một cách vô cùng chính xác, và cảm giác giữa trận chiến, bỏ tay ra khỏi khẩu súng trường để thò tay vào túi lôi đồng hồ ra xem giờ có vẻ không hợp lý?
Và rồi, từ một công cụ phục vụ trên chiến trường, chiếc đồng hồ đeo tay dần trở thành một biểu tượng thời trang dành cho đàn ông và phụ nữ, với những món đồ chơi đầy ấn tượng ra mắt những năm 60 và 70 của thế kỷ trước. Những người làm văn phòng chọn dress watch từ những năm 60 để có một món đồ xem giờ gọn gàng dưới ống tay áo sơ mi. Những thợ lặn cần một chiếc đồng hồ xuống nước không bị áp lực khiến vỡ nát. Những tay đua cần một chiếc đồng hồ đếm xem họ chạy một vòng đường đua hết bao lâu,… Nó bắt đầu phục vụ nhiều nhu cầu dân sự hơn, với nhiều tính năng được khám phá và hoàn thiện với tốc độ công nghệ thay đổi nhanh chẳng kém gì thời kỳ máy tính điện tử.
Nếu đầu thế kỷ XX, những cuộc chiến tranh đã giúp chiếc đồng hồ đeo tay có chỗ đứng trên thị trường, thì đến giữa thế kỷ, kỷ nguyên truyền hình và điện ảnh đã trở thành công cụ đem những cái tên đình đám nhất đến với công chúng. Điệp viên 007 do Sean Connery thủ vai trong Golfinger có thể đi bơi mặc mỗi cái quần xà lỏn nhưng trên tay vẫn phải có đồng hồ. Hay những buổi truyền hình trực tiếp nơi công chúng nhìn thấy chiếc Vulcain Cricket, hay Rolex Day-Date dây Presidential vàng óng ả trên tay Lyndon Johnson hay Richard Nixon cũng là một ví dụ khác.
Năm 2013, Alexis McCrossen, giáo sư sử học trường đại học Southern Methodist, tác giả cuốn “Dấu mốc thời gian: Lịch sử đồng hồ, đồng hồ đeo tay và những công cụ thời gian trong lịch sử Mỹ” nói rằng, với sự ra đời của smartwatch, vòng quay lịch sử “bỏ đồng hồ quả quýt, chọn đồng hồ đeo tay” sẽ diễn ra, nhưng lần này là với những chiếc đồng hồ cơ. Cô cho rằng, việc con người dùng smartphone ngày càng nhiều cũng khiến đồng hồ đeo tay bớt phổ biến, đặc biệt là đối với những người trẻ tuổi, những người dùng chiếc điện thoại để xem giờ, cùng rất rất nhiều công năng khác. Ở một khía cạnh nào đó, cô nói cũng không sai, vì để nhận định một cách công bằng, giờ chúng ta mua đồng hồ để đeo cho đẹp, chứ chẳng mấy ai coi việc xem giờ là điều quan trọng như xưa nữa.
Nhưng còn nhận định smartwatch sẽ thay thế hoàn toàn đồng hồ cơ? Hẳn chúng ta đều đã có câu trả lời cho riêng mình.
Tham khảo Art of Manliness, The Atlantic