Ngày 16 tháng 1 năm 1957 đánh dấu một mốc đáng nhớ trong lịch sử hàng không thế giới khi trung tá James H. Morris đã chỉ huy 3 máy bay B-52 Stratofortress của Không lực Hoa Kỳ (USAF) bay không dừng nghỉ vòng quanh thế giới. B-52 cũng là những chiếc máy bay phản lực đầu tiên thực hiện được điều này.
Chuyến bay là một phần của chiến dịch Power Flite, bắt đầu vào 1 giờ chiều ngày 16 tháng 1 năm 1957 khi 5 chiếc B-52B thuộc Phi đội ném bom số 93 thuộc Lực lượng không quân 15 cất cánh từ căn cứ Castle, California hướng về phía đông.
James H. Morris cầm lái chiếc B-52B có tên Lucky Lady III và cũng là chiếc bay dẫn đầu. Trên máy bay còn có thiếu tướng Archie J. Old, Jr - chỉ huy Lực lượng không quân 15 (ảnh trên). Trong số 5 chiếc máy bay thì có 3 chiếc chính và 2 chiếc đóng vai trò "sơ cua". Phi hành đoàn trên mỗi chiếc gồm 9 người, mỗi phi hành đoàn có 3 phi công và 2 hoa tiêu. Những chiếc KC-97 Stratofreighter được dùng để tiếp nhiên liệu trên không cho phi đội B-52B. Trong chiến dịch này có đến 100 chiếc KC-97 tham gia.
Chuyến bay là một phần của chiến dịch Power Flite, bắt đầu vào 1 giờ chiều ngày 16 tháng 1 năm 1957 khi 5 chiếc B-52B thuộc Phi đội ném bom số 93 thuộc Lực lượng không quân 15 cất cánh từ căn cứ Castle, California hướng về phía đông.
James H. Morris cầm lái chiếc B-52B có tên Lucky Lady III và cũng là chiếc bay dẫn đầu. Trên máy bay còn có thiếu tướng Archie J. Old, Jr - chỉ huy Lực lượng không quân 15 (ảnh trên). Trong số 5 chiếc máy bay thì có 3 chiếc chính và 2 chiếc đóng vai trò "sơ cua". Phi hành đoàn trên mỗi chiếc gồm 9 người, mỗi phi hành đoàn có 3 phi công và 2 hoa tiêu. Những chiếc KC-97 Stratofreighter được dùng để tiếp nhiên liệu trên không cho phi đội B-52B. Trong chiến dịch này có đến 100 chiếc KC-97 tham gia.
Trong giai đoạn đầu của hành trình, chiếc B-52B có tên La Victoria trong bộ 3 bay chính do phi công George Kalebaug điều khiển đã không thể tiếp nhiên liệu trên không với máy bay KC-97 nên nó buộc phải hạ cánh tại căn cứ Goose Bay, Labrador, Canada. Một trong 2 chiếc B-52B dự phòng chỉ bay đến Casablanca, Morocco sau đó tách nhóm và hạ cánh ở căn cứ Brize Norton của Lực lượng không quân Hoàng gia Anh (RAF) theo đúng kế hoạch ban đầu. 3 chiếc B-52B còn lại gồm 2 chiếc chính, 1 chiếc phụ tiếp tục hành trình.
Sau khi tiếp nhiên liệu trên không ở Morocco, đội bay hướng về Saudi Arabia, bay dọc theo bờ biển Ấn Độ đến Sri Lanka. Phi đội B-52B thực hiện đánh bom giả tưởng tại miền nam bán đảo Malay trước khi hướng về điểm tiếp nhiên liệu ở Manila và Guam. 3 chiếc máy bay tiếp tục hành trình vượt Thái Bình Dương và hạ cánh tại căn cứ không quân March gần Riverside, California vào ngày 18 tháng 1.
Tổng thời gian bay là 45 giờ 19 phút không dừng nghỉ, tổng hành trình gần 40 ngàn km, vận tốc bay trung bình 845 km/h. Trước đó năm 1949, USAF cũng đã từng thực hiện thành công chuyến bay vòng quanh thế giới nhưng với máy bay Boeing B-50 Superfortress Lucky Lady II. B-50 là máy bay ném bom chiến lược với 4 động cơ cánh quạt và trong chuyến bay năm 1949, cơ trưởng James Gallagher đã đưa chiếc B-50 vượt hành trình dài 37.742 km với đường bay tương tự chiến dịch Power Elite. Tổng thời gian bay lên đến 94 tiếng 1 phút với vận tốc trung bình 401 km/h.
Sứ mạng Power Flite dù được USAF ngợi ca là sứ mạng quan trọng nhất trong số tất cả các sứ mạng được thực hiện dưới thời bình bởi Không lực Hoa Kỳ nhưng đối với phi công James Morris thì chuyến bay lịch sử này cũng chỉ giống như những chuyến bay khác trong cuộc đời ông. Chiến dịch Power Elite cũng không phải là lần đầu tiên James Morris thiết lập kỷ lục cá nhân. Vào năm 1956, ông vừa làm phi công, vừa chỉ huy chiến dịch Quick Kick với 8 chiếc B-52 bay quần thảo không nghỉ quanh Bắc Mỹ, kéo dài 31 giờ 30 phút, tổng hành trình 25 ngàn km.
Năm 2014, Abilene Reporter News từng có dịp phỏng vấn James Morris lúc đó ông đã 97 tuổi (ảnh trên, bên trái). Ông nói: "Điều này (chuyến bay vòng quanh thế giới năm 1957) chưa từng được thực hiện bởi bất cứ quốc gia nào. Họ chưa từng bay vòng quanh thế giới bám theo đường xích đạo. Vậy nên theo lẽ tự nhiên thì một con người sẽ muốn chinh phục điều đó."
Có nhiều mục tiêu đặt ra cho chiến dịch Power Flite, điển hình như thử nghiệm các phương pháp tiếp nhiên liệu trên không, thử nghiệm hệ thống liên lạc với tần số vô tuyến siêu cao nhưng thông điệp chính được gởi đến thế giới đó là năng lực tấn công hạt nhân của Hoa Kỳ. Morris nói: "Khi nhắc đến vũ khí hạt nhân và chiến tranh thì thế giới kiểu như đều nhón chân lên. Đây cũng là thời điểm mà một cường quốc khác muốn đưa vũ khí hạt nhân vào Cuba."
Quảng cáo