Theo hãng tin AP, cơ quan quản lý dược Anh Quốc vừa cấp phép có điều kiện với Molnupiravir, loại thuốc đầu tiên được áp dụng trong quá trình điều trị COVID-19. Tuy nhiên hiện tại vẫn chưa rõ liệu loại thuốc này sẽ được đưa vào sử dụng kể từ thời điểm nào. Được biết, Molnupiravir đã được cấp phép sử dụng đối với những bệnh nhân dương tính với COVID-19 và có ít nhất một bệnh lý nền khiến tình trạng bệnh trở nên trầm trọng hơn, ví dụ như bệnh tim mạch hay tiểu đường. Trước đó trong quá trình nghiên cứu, hãng dược Merck cho biết loại thuốc này có thể giúp những ca COVID-19 thể nhẹ và vừa tự điều trị tại nhà, ngày uống hai lần trong vòng 5 ngày.
Hiện tại Molnupiravir cũng đang trong quá trình xem xét phê duyệt cấp phép tại Mỹ và liên minh châu Âu, cùng nhiều khu vực khác. Tháng trước, FDA bên Mỹ đã cho biết sẽ thành lập ban đánh giá riêng với các nhà nghiên cứu và chuyên gia độc lập để xem xét mức độ hiệu quả và an toàn của loại thuốc này, dự kiến sẽ bắt đầu làm việc từ cuối tháng 11 tới.
Ban đầu, nguồn cung Molnupiravir sẽ tương đối hạn chế. Merck cho biết từ nay đến cuối năm họ đủ khả năng sản xuất 10 triệu liệu trình Molnupiravir, mỗi đơn đủ lượng thuốc để điều trị một bệnh nhân COVID-19. Nhưng hầu hết sản lượng đó đều đã được chính phủ nhiều nước đặt mua trước. Phía Anh Quốc cho biết họ đã đặt được 480.000 liệu trình Molnupiravir, và kỳ vọng hàng nghìn công dân sẽ được điều trị bằng loại thuốc này vào mùa đông năm nay. Phía Mỹ cũng đã đặt hàng 1,7 triệu liệu trình, nguồn tin không chính thức cho biết mỗi đơn Molnupiravir điều trị trong 5 ngày có giá khoảng 700 USD.
Trước đó, những lo ngại về tác dụng phụ của Molnupiravir với thai nhi đã được cơ quan quản lý thuốc và sản phẩm chăm sóc sức khỏe của vương quốc Anh nghiên cứu, rồi đi đến kết luận loại thuốc này không có nguy cơ gây hại cho bào thai con người. Cơ quan này cho biết: “Những nghiên cứu trên chuột cho thấy loại thuốc này có thể gây ra những tác hại đối với bào thai của chuột, dù rằng tác dụng phụ ấy đến từ liều lượng cao hơn nhiều so với liều lượng dùng để điều trị cho con người, và tác dụng phụ ấy không xuất hiện trên những loài động vật thí nghiệm khác.”
Hiện tại Molnupiravir cũng đang trong quá trình xem xét phê duyệt cấp phép tại Mỹ và liên minh châu Âu, cùng nhiều khu vực khác. Tháng trước, FDA bên Mỹ đã cho biết sẽ thành lập ban đánh giá riêng với các nhà nghiên cứu và chuyên gia độc lập để xem xét mức độ hiệu quả và an toàn của loại thuốc này, dự kiến sẽ bắt đầu làm việc từ cuối tháng 11 tới.
Ban đầu, nguồn cung Molnupiravir sẽ tương đối hạn chế. Merck cho biết từ nay đến cuối năm họ đủ khả năng sản xuất 10 triệu liệu trình Molnupiravir, mỗi đơn đủ lượng thuốc để điều trị một bệnh nhân COVID-19. Nhưng hầu hết sản lượng đó đều đã được chính phủ nhiều nước đặt mua trước. Phía Anh Quốc cho biết họ đã đặt được 480.000 liệu trình Molnupiravir, và kỳ vọng hàng nghìn công dân sẽ được điều trị bằng loại thuốc này vào mùa đông năm nay. Phía Mỹ cũng đã đặt hàng 1,7 triệu liệu trình, nguồn tin không chính thức cho biết mỗi đơn Molnupiravir điều trị trong 5 ngày có giá khoảng 700 USD.
Trước đó, những lo ngại về tác dụng phụ của Molnupiravir với thai nhi đã được cơ quan quản lý thuốc và sản phẩm chăm sóc sức khỏe của vương quốc Anh nghiên cứu, rồi đi đến kết luận loại thuốc này không có nguy cơ gây hại cho bào thai con người. Cơ quan này cho biết: “Những nghiên cứu trên chuột cho thấy loại thuốc này có thể gây ra những tác hại đối với bào thai của chuột, dù rằng tác dụng phụ ấy đến từ liều lượng cao hơn nhiều so với liều lượng dùng để điều trị cho con người, và tác dụng phụ ấy không xuất hiện trên những loài động vật thí nghiệm khác.”
Tuy nhiên trong quá trình thử nghiệm lâm sàng, Merck yêu cầu người tình nguyện không sinh hoạt tình dục hoặc áp dụng các biện pháp bảo vệ. Quá trình thử nghiệm lâm sàng thuốc Molnupiravir trên người cũng không bao gồm những bà mẹ đang mang thai.
Ban đầu, Molnupiravir là thành quả của cuộc nghiên cứu của các chuyên gia đại học Emory, do chính phủ Mỹ cấp vốn, với mục tiêu tạo ra một loại thuốc trị cúm. Đến năm ngoái, các nhà nghiên cứu đại học Emory định hướng lại mục tiêu nghiên cứu để biến Molnupiravir trở thành thuốc trị COVID-19. Sau đó trường đã bán bản quyền loại thuốc này cho Ridgeback Biotherapeutic và đối tác sản xuất là tập đoàn Merck.
Tuần trước, Merck đồng ý cho các hãng dược khác cùng sản xuất loại thuốc này, với mục tiêu giúp hàng triệu người tại các quốc gia nghèo cũng có thể tiếp cận giải pháp điều trị COVID-19. Theo nhóm Medicines Patent Pool, đơn vị được Liên Hợp Quốc bảo trợ, Merck sẽ không được nhận tiền bản quyền sở hữu trí tuệ của các hãng sản xuất Molnupiravir cho tới khi WHO dừng coi đại dịch lần này là tình trạng khẩn cấp toàn cầu. Một trong những động thái của Merck là làm việc với các hãng sản xuất thuốc Ấn Độ để giảm chi phí sản xuất, giúp đem Molnupiravir tới các quốc gia thu nhập thấp.
Tuyên bố trên của Merck cũng gặp vài phản ứng tiêu cực, vì thương vụ chia sẻ bản quyền sở hữu trí tuệ không đề cập đến các quốc gia có thu nhập trung bình nhưng đủ sức sản xuất hàng triệu liều thuốc, ví dụ như Brazil và Trung Quốc. Dù vậy phần đông giới chuyên môn vẫn đánh giá cao động thái của Merck.
Theo AP