Một nhà thiết kế (là chủ trang Arun.is) đã nghiên cứu cách Apple làm ra các mặt đồng hồ cho Apple Watch, và phát hiện ra rằng Apple đã học rất nhiều từ lịch sử cả trăm năm phát triển của đồng hồ đeo tay. Những mặt đồng hồ này đều có ý nghĩa rất hay, mình viết lại và mời các bạn đọc. Bài dài, nhưng hay lắm, ráng đọc hết nha anh em.
Để hiểu Apple học được những thứ này từ đâu, chúng ta cần hiểu mặt đồng hồ trên Apple Watch có những thành phần nào, chúng có những hình dáng ra sao.
Về mặt hình dáng, đa số mặt của Apple Watch có 2 dạng: tròn hoặc vuông bo góc.
Các thành phần chính trong mặt đồng hồ của Apple Watch
Để hiểu Apple học được những thứ này từ đâu, chúng ta cần hiểu mặt đồng hồ trên Apple Watch có những thành phần nào, chúng có những hình dáng ra sao.
Về mặt hình dáng, đa số mặt của Apple Watch có 2 dạng: tròn hoặc vuông bo góc.

Một số mặt đồng hồ có cả vòng số mỏng lẫn vòng số dày như hình bên dưới.

Dù hình dáng như thế nào thì chúng cũng đều sử dụng cùng thiết kế kim đồng hồ, chỉ khác chút về phối hợp màu sắc mà thôi. Đa số mặt đồng hồ của Apple Watch đều có kim giờ, phút, giây. Một số kim sử dụng màu đặc, một số thì sử dụng dạng rỗng (outline) với màu nổi bật. Những cái kim này cũng có thiết kế bo góc giống với nhiều thành phần giao diện khác của Apple Watch cũng như font chữ San Francisco bản dùng cho Apple Watch (hơi bo một chút).

Các mặt đồng hồ hỗ trợ thêm chức năng mà Apple gọi là complication. Nó là những mẫu thông tin hiển thị lên cùng với các mặt đồng hồ, có thể là thông tin thời tiết, thông tin tập luyện thể thao, thông tin từ app bên thứ ba…

Ở vai trò người dùng, bạn có thể chọn một số màu sắc được Apple cung cấp sẵn.
Mặt đồng hồ California
Cái tên California không phải để nói về nơi đặt trụ sở Apple mà nó là một thiết kế mặt đồng hồ đã có từ thời Thế chiến Thứ 2. Thiết kế này được làm ra với các con số rất to và dày, điểm đặc biệt là chúng kết hợp cả số La mã với chữ số thông thường (trong khi những đồng hồ khác thường chỉ dùng 1 hệ số mà thôi). Ngoài ra, các số thường được phủ một lớp phát quang được làm ra dựa trên chất radium. Mục đích của việc này là để cả người đeo lẫn đồng đội không đọc nhầm thông tin khi liếc mắt xem giờ, đặc biệt là trong điều kiện khó nhìn của các trận chiến.
Quảng cáo

Rolex từng đăng kí bằng sáng chế cho thiết kế này trong thời gian chiến tranh, nhưng mọi chuyện chưa dừng ở đó. Công ty đồng hồ Panerai, thời đó nổi tiếng ở vai trò nhà cung cấp công cụ dụng cụ cơ khí chính xác, đã được giao nhiệm vụ làm đồng hồ đeo tay cho lính lặn biển của Đức. Rolex làm ra mẫu đồng hồ 3646 cho Panerai dựa trên thiết kế của mình.

Sau đó thiết kế mặt đồng hồ này dần đi vào quên lãng, nhưng vào những năm 80 thì chúng xuất hiện trổ lại trên chiếc Bubbleback Rolex. Nó được yêu thích đến mức cầu vượt cung dẫn đến việc một công ty ở Los Angeles phải tiến hành chế tạo lại các mặt đồng hồ hiện hữu với thiết kế nửa số thường, nửa số La Mã nhằm đáp ứng nhu cầu khách hàng. Có lẽ vì thế mà cái tên California dial bắt đầu xuất hiện từ đó.

Trên Apple Watch, mặt đồng hồ này có thể được tùy biến với kiểu 50-50 như trên, hoặc chỉ có số La Mã, hoặc chỉ có số thường, thậm chí không hiện số luôn cũng được.
Quảng cáo
Mặt đồng hồ Chronograph & Chronograph Pro
Đồng hồ chronograph là những đồng hồ có thể dùng làm đồng hồ bấm giờ. Nó hữu dụng trong các tình huống thể thao, tình huống cần canh giờ chính xác. Chữ “chronograph” bắt nguồn từ chữ “khrónos” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là thời gian. Đa số đều đồng ý rằng chiếc đồng hồ chronograph đầu tiên được thiết kế bởi Nicolas Mathieu Rieussec vào năm 1822 bởi King Louis XVIII để đo thời gian chạy cho những con ngựa của mình.

Thế rồi năm 2021, nhà đấu giá Christie đưa ra một chiếc đồng hồ bấm giờ được làm bởi Louis Moinet, nó xuất hiện trước 6 năm so với phát minh của Rieussec và nhìn rất giống đồng hồ bấm giờ hiện đại. Thế là lịch sử của chronograph thay đổi.

Năm 1889, hãng Breitling giới thiệu một đồng hồ có trang bị tính năng bấm giờ có khả năng đo được nhiều đối thủ trong cuộc đua. Năm 1913, Longines giới thiệu mẫu Calibre 13.33Z, chiếc đồng hồ đeo tay đầu tiên có chronograph như hình dưới.

Ngay cả chiếc đồng hồ đầu tiên được đưa lên mặt trăng, là chiếc Omega Speedmaster Professional được đeo bởi Buzz Aldrin, cũng là dạng chronograph. Chiếc đồng hồ này được gọi với biệt danh “Moonwatch”.

Còn đây là mặt chronograph của Apple Watch. Nó sử dụng thiết kế kim giống như đã nói ở trên, và có 2 mặt nhỏ bên trong. Kim giây của chronograph sẽ đứng yên khi không sử dụng. Bên góc phải có một nút để bật chế độ đo giờ, và thang thời gian có thể điều chỉnh thành 60, 30, 6 hoặc 3 giây mỗi vòng quay tùy bạn.

Mặt đồng hồ Count Up
Cái tên này không chỉ thiết kế của mặt đồng hồ mà thực ra nó được dùng để chỉ một loại viền đồng hồ. Cái viền này có thể xoay được, và khi dùng với kim phút thì bạn có thể đo được thời gian trôi qua theo phút.
Kiểu vòng đồng hồ count up bắt nguồn từ năm 1953 . Nhưng trước đó, từ năm 1926, Rolex đã bắt đầu nghiên cứu, phát triển mẫu đồng hồ Oyster với vòng xoay nằm ở trên và đến năm 1932 thì ra mắt chiếc Marine với khả năng chống nước. Panerai thì tiếp tục nâng cấp các đồng hồ dành cho thợ lặn và giới thiệu chiếc Radiomir.
Đến năm 1953, Rolex đạt kỉ lục mới khi đặt chiếc đồng hồ Deep Sea của mình lên vỏ ngoài của chiếc tàu ngầm nghiên cứu Trieste. Nó đã lặn sâu 3.150m dưới biển và khi quay trở lại, chiếc đồng hồ vẫn chẳng hề hấn gì.

Trước đó, Thuyền trưởng Robert “Bob” Maloubier và Đại Úy Claude Riffaud của Trường lặn thuộc Hải quân Pháp đã tiếp cận với Blancpain và yêu cầu họ phát triển một mẫu đồng hồ lặn mới. CEO Blancpain thời đó là Jean-Jacques Fiechter cũng là một người thích lặn và tiếp nhận yêu cầu này, trong cùng năm đó Blancpain đã đưa ra được giải pháp. Chiếc Blancpain Fifty Fathoms ra đời (hình trên), nó được thiết kế để có thể hoạt động ở độ sâu 50 fathoms (đơn vị độ sâu, 1 fathom = 1,8288m). Chiếc đồng hồ này không bị ảnh hưởng bởi từ trường và có một vòng xoay để đo thời gian lặn.
Một năm sau, Rolex giới thiệu chiếc đồng hồ Submariner - một mẫu đồng hồ rất phổ biến dành cho dân lặn biển.
Còn đây là cách hoạt động của vòng đếm giờ trên mặt đồng hồ Count Up của Apple Watch.
Mặt đồng hồ GMT
GMT có nghĩa là Greenwich Mean Time - là múi giờ đi qua Đài thiên văn Greenwich, London. Từ những năm 1800 nó đã được sử dụng để làm chuẩn múi giờ.
Mặt đồng hồ GMT trở nên phổ biến vào những năm giữa thập niên 20. Sự nổi dậy của máy bay phản lực đã khiến nhu cầu di chuyển giữa các châu lục trở nên phổ biến hơn. Có một vấn đề mới sinh ra, đó là làm sao điều chỉnh giờ trên đồng hồ theo múi giờ mới.

Glycine là hãng đầu tiên đưa ra đồng hồ có thể hiển thị hai múi giờ với chiếc Airman ra mắt năm 1953. Pan Am, hãng hàng không lớn của Mỹ thời đó thấy rằng phi công của họ cần phải theo dõi nhiều múi giờ, nên đã tiếp cận Rolex với bài toán này. Thế là chiếc Rolex GMT Master ra đời. Mẫu GMT Master nhìn khá đơn giản và dễ nhầm lẫn với chiếc Submariner nhưng khi nhìn kĩ hơn, sẽ có một cái kim thứ 4 xuất hiện. Đây là kim GMT, nó chạy chậm hơn 2 lần so với kim giờ nên mỗi vòng sẽ là 24 tiếng. Mặc định nó sẽ đi theo cùng múi giờ với kim giờ nhưng bạn có thể xoay vòng để chuyển múi giờ.

Nói về vòng xoay, nó có 2 màu, thường là xanh và đỏ để biểu thị buổi sáng hoặc tối giúp người đeo biết được giờ một cách dễ dàng hơn. Cũng vì hai màu này nên giới chơi đồng hồ gọi chiếc GMT Master bằng cái tên “Rolex Pepsi”. Có một phiên bản khác dùng màu đen và đỏ thì được gọi là “Rolex Coke”, còn phiên bản xanh và đen là “Rolex Batman”.
Chiếc GMT khá thành công. Những năm 1960, khi bạn nhìn vào một chiếc Boeing 707 thì khả năng cao là bạn sẽ thấy chiếc đồng hồ này trên tay của cả phi công lẫn những người giàu có ngồi trong khoang hạng nhất. Nó cũng xuất hiện trên phim ảnh nữa.
Mặt GMT trên chiếc Apple Watch mô phỏng lại cách hoạt động của đồng hồ cơ. Nhưng vì là kĩ thuật số nên vạch chia xanh đỏ đổi khi sẽ thay đổi tùy theo địa phương / múi giờ cũng như bán cầu của múi giờ được thiết lập.
Kết luận
Nhóm làm ra Apple Watch thật sự đáng nể, thiết kế công nghiệp lẫn thiết kế mặt đồng hồ đều giữ lại trọn vẹn lịch sử hàng trăm năm của đồng hồ đeo tay trong khi vẫn đầy công nghệ hiện đại. Khi tôi viết bài này, mức độ nể phục của tôi với Apple chỉ tăng thôi chứ không giảm. Apple hoàn toàn có thể sao chép lại thiết kế của những mặt đồng hồ phổ biến nhưng họ không làm thế, họ nghiên cứu lịch sử của từng mặt một, công dụng của chúng để làm gì và số hóa nó một cách tuyệt vời. Khi làm từng mặt đồng hồ một, Apple suy nghĩ kĩ về lịch sử, về hạn chế và cơ hội mới để cải tiến chúng.
Một câu hỏi thú vị xuất hiện: những mặt đồng hồ mới nào sẽ được giới thiệu thêm trong tương lai? Hãy cùng chờ xem.