iMac là chiếc máy tính mình luôn đánh giá cao ở phần hiệu năng xử lý, nhưng tất nhiên phải đi kèm theo đó là ưu điểm của một chiếc máy tính All In One. Sở dĩ iMac (các đời trước) có hiệu năng mạnh mẽ đó là vì chúng được trang bị một con chip cấu hình đầy đủ và mạnh mẽ hơn những con chip Laptop hướng đến khả năng tiết kiệm điện. Mình đã sử dụng qua khá nhiều thế hệ iMac kể từ 2011 trở lên, điểm yếu duy nhất của chúng đó là không được trang bị sẵn bộ nhớ SSD tốc độ cao, nếu không nâng cấp nó thì trải nghiệm kém đi rất nhiều. Còn đối với iMac M1 đây nó sẽ là một câu chuyện hoàn toàn mới, mới không phải là vì chúng đều đã có SSD tốc độ cao, mà mới còn ở con chip M1, một con chip nếu như chỉ nhìn vào những thông số Benchmark thì số điểm đơn nhân có thể sánh ngang với chiếc iMac Pro hay một chiếc máy trạm nào đó khác.
Để đảm bảo an toàn nhu cầu sử dụng của mình thì mình cũng cẩn thận lựa chọn cấu hình cao nhất có thể của iMac M1 24” với 8 nhân GPU, 8 nhân CPU và 16GB RAM, bởi nó là một thứ gì đó hoàn toàn mới mẻ, khác nhiều so với những chiếc máy tính Mac cũ. Và phần nữa đó là vì mình đang sử dụng một chiếc Macbook Pro 15” Cấu hình Core i9 2,9GHz, 32GB RAM, GPU Radeon Pro 560x 4GB. Mong muốn ban đầu của mình chỉ là một chiếc máy gọn gàng với một màn hình đẹp và quan trọng là hiệu năng không chênh lệch nhiều với thiết bị mà mình đang dùng, ít nhất là nó có thể chạy tốt ứng dụng chỉnh sửa hình ảnh cơ bản, nhưng thực tế dùng đến hôm nay thì nó đã vượt qua kỳ vọng rất nhiều.
Để đảm bảo an toàn nhu cầu sử dụng của mình thì mình cũng cẩn thận lựa chọn cấu hình cao nhất có thể của iMac M1 24” với 8 nhân GPU, 8 nhân CPU và 16GB RAM, bởi nó là một thứ gì đó hoàn toàn mới mẻ, khác nhiều so với những chiếc máy tính Mac cũ. Và phần nữa đó là vì mình đang sử dụng một chiếc Macbook Pro 15” Cấu hình Core i9 2,9GHz, 32GB RAM, GPU Radeon Pro 560x 4GB. Mong muốn ban đầu của mình chỉ là một chiếc máy gọn gàng với một màn hình đẹp và quan trọng là hiệu năng không chênh lệch nhiều với thiết bị mà mình đang dùng, ít nhất là nó có thể chạy tốt ứng dụng chỉnh sửa hình ảnh cơ bản, nhưng thực tế dùng đến hôm nay thì nó đã vượt qua kỳ vọng rất nhiều.
Phần cứng
Không có gì mới khi các sản phẩm sử dụng chip M1 hiện tại là giống nhau, thông số kỹ thuật có lẽ các bạn cũng không lạ lẫm, các phần mềm bên thứ 3 chỉ ra xung nhịp chip đơn nhân là 3,2GHz và đa nhân là 3.0GHz. Ở một số bài test thông qua phần mềm chúng đều đưa ra con số gần tương tự như nhau, sẽ có sự khác biệt giữa các máy iMac với Macbook thì một lát nữa mình sẽ nói.iMac sẽ phải “kéo” 1 cái màn hình Retina 24 inch (thực tế là 23,5 inch) độ phân giải 4,5K cùng với mật độ điểm ảnh cao khiến bạn không thể nhìn ra điểm ảnh dù có ngồi gần màn hình, đây là một chi tiết sử dụng cấu hình máy mà theo mình là ở mức tương đối cao, có thể nhận ra ngay được khác biệt khi so với một chiếc Macbook M1.
Với phiên bản 7 nhân GPU thì iMac sẽ được trang bị kèm 1 quạt hỗ trợ giải nhiệt, còn với phiên bản 8 nhân GPU thì sẽ có 2 quạt. Đây có lẽ là điểm mấu chốt quyết định sức mạnh của chiếc máy cả ở trên các ứng dụng đo đạc cho đến quá trình sử dụng thực tế, một con CPU mát hơn thì sẽ có thể phát huy tối đa hiệu năng thiết kế, còn nếu như nó bị nóng thì xung nhịp chắc chắn sẽ bị giảm, những công việc cần hiệu năng mà lại kéo dài như chỉnh ảnh hay dựng phim thì sẽ thể hiện rõ điều này.
Xử lý hình ảnh
Quá trình sử dụng thực tế của mình với tác vụ này thì khá đơn giản, mình sẽ thường xuyên xử lý những file ảnh Raw với dung lượng đâu đó khoảng 30-50mb/ 1 tấm, số lượng 1 lần từ khoảng 30 cho đến 100 tấm trên phần mềm Lightroom. Quay lại với cái Macbook Pro Core i9 mà mình đang dùng với tác vụ này, về cơ bản thì nó là một chiếc máy có cấu hình rất mạnh mẽ, cũng là dòng máy đầu tiên Apple đầu tư “chạy đua” cấu hình mặc dù những thế hệ trước đó vẫn là những chiếc máy ổn định và mạnh mẽ. Nhưng vấn đề ở chỗ nhiệt độ của chiếc máy không được tối ưu, dẫn đến việc dễ bị giảm hiệu năng khi dùng thao tác chỉnh sửa 1 Album ảnh kéo dài, những thao tác như chấm bụi bằng Clone tool cũng trở nên chậm rãi và delay khá nhiều, nó chẳng thể hiện được sức mạnh như trên thông số của chiếc máy, đôi khi cái thao tác này phải làm nhiều cho đến rất nhiều thì mình mở thêm phần chỉnh sửa ở Photoshop để làm được mượt mà và nhanh hơn.Đối với chiếc iMac M1 thì nó là một trải nghiệm hoàn toàn mới, bắt đầu với việc nhập (import) hình ảnh vào Lightrom thì tốc độ đã nhanh hơn trông thấy, tốc độ này khiến mình nghĩ ngay trong đầu là core i9 32GB RAM để làm cái gì không biết, thực sự là cảm giác “xem thường” chiếc máy cũ khá nhiều và như M1 là chân lý của cuộc đời ngay từ phút giây đầu tiên này.
Nói kỹ hơn một chút thì cho đến hiện tại, Adobe Lighroom Classic chưa hoàn toàn tương thích với chip M1 mới giống như Lighroom, nhưng tốc độ xử lý là rất tốt. Mình đã thử xuất 1 Album hình ảnh từ file RAW sang JPEG với các hiệu chỉnh cơ bản là Resize, tương phản, sáng tối… thì tốc độ tương đương chiếc Macbook Pro cũ của mình, không nhanh hơn. Về tốc độ phản hồi các thao tác hiệu chỉnh điển hình là công cụ Clone Tool phản hồi nhanh hơn rõ rệt, đặc biệt là mình chưa từng gặp tình trạng bị lag khi xuất file, thói quen là khi xuất file ảnh mình sẽ mở trình duyệt web, hoặc mở Photoshop để chỉnh sửa riêng 1 tấm ảnh nào đó. iMac M1 dù chỉ với 16GB RAM nhưng nó đáp ứng sức mạnh cho khoản này rất tốt, chiếc Macbook cũ của mình không phải là kém nhưng rất nhiều tình huống chỉnh sửa ảnh kéo dài và đến công đoạn cuối này thì bị lag khi thực thi các tác vụ khác.
Đối với chỉnh sửa hình ảnh trên Photoshop thì thực tế nhu cầu sử dụng của mình là quá đơn giản với nhiều chiếc máy không riêng chiếc này, nhưng mình cũng muốn thử một điều gì đó để có thể dễ dàng hơn hình dung ra sức mạnh của chiếc máy, ít nhất là với “cây thước” đo chính là chiếc Macbook Pro cũ của mình để các bạn dễ hình dung hơn.
Quảng cáo
Mình đã thử dùng tính năng Photomerge để ghép nhiều tấm ảnh thành 1 tấm Panorama. Mình có tổng cộng 31 tấm ảnh dung lượng là 3,4 GB. Kể từ lúc bắt đầu bấm để phần mềm tự động ghép các ảnh lại với nhau cho đến khi có thể thực hiện thao tác khác với tấm hình là mất 3 phút 46 giây. Nọi dung tương tự mình thực hiện trên chiếc Macbook Pro 15” của mình hết 9 phút 10 giây. Rõ ràng đây là một sự chênh lệch rất lớn, và nếu như bạn sử dụng PS với tác vụ tương tự thì con chip M1 sẽ mang đến thật nhiều khác biệt so với con chip intel thế hệ cũ.
Xử lý video
“Dùng chẳng bao nhiêu nhưng đòi hỏi nhiều” - đó là tính cách của mình dù có thể bị cười chê. Sự thật mỗi món mình dùng một ít, nhưng không cái nào thực sự nhiều (trừ Lightroom). Mình có dựng phim ngắn, chỉnh sửa những đoạn phim có sẵn để up Youtube hoặc Facebook, 2 phần mềm mình hay dùng là Final Cut Pro và VN, cả 2 đều tương thích rất tốt với máy Mac để có thể làm những đoạn phim đơn giản, các thao tác cắt, chèn hiệu ứng chuyển cảnh, chỉnh màu... Mục này thì mình hơi khó để so với máy cũ bởi những clip ngắn và đơn giản 2 chiếc máy không thể hiện được sự chênh lệch.Nhưng cảm nhận trong quá trình mình dùng và thao tác với 1 Project độ phân giải 1920 x 1080 trên phần mềm Adobe Premiere Pro là rất tốt. Những thao tác cần sức mạnh như xử lý chống rung cho 1 đoạn cắt cảnh 400-600 khung hình mất 8-10 giây (quay bằng Nikon Z6, Codec H.264), những hiệu ứng chuyển cảnh khi Playback để check trên độ phân giải Full cũng đủ mượn mà (dù đôi khi vẫn vấp), không gây phàn nàn. Tốc độ xuất file với Project trên thời lượng 10p30s thì mình tốn 2 phút để hoàn thành (bấm bằng đồng hồ ngoài), dung lượng file đầu ra 820 MB (đối với trên Macbook Pro 15” cũ của mình cho thời lượng tương tự).
Đối với video 4K được quay từ chiếc iPhone 12 Promax của mình cũng không phải là vấn đề đối với mình, bởi mình chỉ thường làm 1 đoạn 2-3 phút, không nhiều hiệu ứng mà chỉ là cắt ghép là chính. Nhưng nếu 1 đoạn dài 7-8 phút thì cũng đủ làm chiếc máy nóng lên, Playback ở chế độ hiển thị Full đã lag mỗi khi áp hiệu ứng chuyển cảnh, mình phải chỉnh hiển thị độ phân giải chỉ 1/4 để có được độ mượt.
Thế giới chỉnh sửa video là rất rộng, mình chia sẻ cái mình trải qua mà thôi, tốc độ xử lý còn phụ thuộc rất nhiều vào thiết bị ghi hình (codec có tương thích tốt hay không), ứng dụng chỉnh sửa có tương thích với máy tốt hay không, nhu cầu chỉnh sửa video thế nào, hiệu ứng nhiều hay ít… Và mình cũng ít khi dùng những phần mềm chuyên nghiệp thế này, nhu cầu của mình chỉ cần dùng phần mềm VN, iMovie và nhiều hơn là Final Cut Pro là đủ, chưa đến mức dùng đến Premiere nên mình cũng ít quan tâm đến hiệu năng với nó.
Quảng cáo
Tốc độ ổ cứng
Mấy phần mềm chỉnh sửa ảnh hay Video bên trên để có thể tối ưu khâu xuất - nhập thì chắc chắn ngoài RAM hay CPU ra thì tốc độ ổ cứng giữ vai trò mấu chốt. Qua thử nghiệm nhanh bằng phần mềm Blackmagic Disk Speed Test phản ánh sự chênh lệch với chiếc Macbook cũ của mình là khá nhiều. Cụ thể thì tốc độ ghi của iMac đạt khoảng 2,9 GB / giây trong khi con số này của chiếc Macbook chỉ nằm ở mức 1,8 GB / giây.
Và thực tế sử dụng với các file dung lượng lớn phần nào đã chứng minh sự chênh lệch tốc độ này là đúng, tốc độ trao đổi dữ liệu nhanh hơn rõ rệt.
Chưa được hoàn hảo
Tạm khoan nói đến vấn đề tương thích ứng dụng với con chip mới, bởi có lẽ phải là một người trong lãnh vực cụ thể nào đó, một phần mềm hay nhu cầu cụ thể nào đó sẽ gặp sự cố này, còn mình tất nhiên là không. Điểm chưa hoàn hảo mà mình nhận ra ngay được đó chính là “tốc độ khung hình” - xin được phép gọi như vậy.Hầu hết những thứ về “tốc độ” chiếc iMac M1 này đều nhanh, thế nhưng với tốc độ khung hình thì nó lại không được nhanh như vậy. Mình đã thử chạy ứng dụng Blender (phần mềm đồ hoạ 3D), với một file demo có sẵn có Blender khi chạy thì chiếc iMac M1 thể hiện ngay sự yếu kém khi khung hình đạt rất thấp so với chiếc Macbook của mình, cùng 1 file khi Playback thì chiếc Macbook đạt 17 khung hình / giây, chiếc iMac M1 này chỉ đạt được 8 khung hình / giây. Nó sẽ không ảnh hưởng đến tốc độ render hay xuất file, nhưng để thao tác thường xuyên thì hiện tượng này cũng không dễ chịu.
Có thể với Blender thì ít ai dùng nhưng mình nêu ví dụ như vậy để các bạn dễ hình dung hơn. Còn trong thực tế thì hiện tượng Drop khung hình này nó cũng xuất hiện ngay ở những thao tác sử dụng thông thường. Mình chọn 60 tấm ảnh RAW và kéo thả chúng vào LR thì ngay lập tức thấy hiện tượng này, nói dễ hiểu thì nó bị Lag.
Đi tìm nguyên nhân cho vấn đề này thì mình đã tìm một chiếc Macbook M1 để thử thì không hề có hiện tượng trên. So sánh khi chạy những ứng dụng test hiệu năng như Cinebench R32 thì kết quả chiến thắng vẫn là iMac. Tuy nhiên khi thử ứng dụng khác liên quan đến đồ hoạ hay khung hình thì chúng đã chỉ ra ngay “thủ phạm” làm drop khung hình chính là cái màn hình độ phân giải cao 4,5K của iMac.
Khi chạy ứng dụng GFXBench Metal thì đã cho ra những con số so sánh với chiếc Macbook Air M1 trong trạng thái mở màn hình là…thua rất nhiều, nhưng ở trạng thái tắt màn hình thì vượt trội hơn, thể hiện “đúng thông số” khi hơn về số nhân GPU và hệ thống phần cứng mà mình đã giải thích phía trên. Và ở một góc độ nào đó, những khi Drop khung hình này sẽ gây mất điểm cho iMac M1, rất hy vọng những bản cập nhật mới sẽ tối ưu hơn nữa khả năng tối ưu hiệu năng để có được trải nghiệm mượt mà hơn.
Quan tâm sức mạnh có nên mua iMac M1?
Nếu bạn chỉ quan tâm đến phần cứng mạnh mẽ thì không nên mua iMac M1 mà hãy đi mua chiếc Mac Mini M1 với phần cứng mạnh mẽ tương tự nhưng giá thành rất tiết kiệm, bạn có thể tuỳ biến cấu hình màn hình đúng nhất với nhu cầu mà bạn muốn. Còn iMac thì sẽ thiên về giải pháp, giải pháp cho ai cần All In One và đặc biệt là cái màn hình đẹp - đồng nhất hệ sinh thái sản phẩm Apple, thực sự tiện lợi và gọn gàng trên bàn làm việc, loa hay camera tốt…và nhiều điều phụ trợ khác làm nên giá trị của chiếc iMac, thế nên nếu như chỉ quan tâm đúng sức mạnh của nó thì có thể bạn lại phí tiền cho những món khác mà mình không dùng đến. Còn đối với kỳ vọng sức mạnh của mình thì chiếc iMac này đã làm quá tốt, đã vượt qua mong đợi của mình rất nhiều, những thứ mình dùng hàng ngày đã nhanh - tiết kiệm thời gian hơn cái Macbook Pro cũ của mình mặc dù giá lúc mua mới đắt hơn chiếc iMac M1 này rất nhiều.Và cuối cùng, nếu bạn quan tâm đến sức mạnh của chiếc máy Apple, điều đầu tiên nên nghĩ đến đó là hệ thống giải nhiệt của nó. Với những chiếc máy tính xách tay dù có quạt tản nhiệt hay không, chúng cũng đều được thiết kế với mức độ giải nhiệt nhất định theo thiết kế, bạn cũng không phải quá bận tâm. Nhưng với nhu cầu đòi hỏi xử lý tác vụ nặng kéo dài cả 1 hay vài tiếng đồng hồ thì chắc chắn bộ giải nhiệt phải mạnh hơn nữa thì mới đảm bảo cho con chip hoạt động ở cường độ cao được. Đó cũng là lý do mà rất nhiều thao tác sử dụng hoặc thống số test của những chiếc máy Mac M1 cho kết quả gần tương đương nhau, nhưng dùng thực tế tác vụ nào nặng và lâu (như dựng phim) thì chúng sẽ bọc lộ rõ ràng hơn sức mạnh, và cũng từ điều này mà bạn hãy cân nhắc chọn cho mình một chiếc máy phù hợp với nhu cầu.
Dành cho bạn nào muốn xem thêm hình ảnh mở hộp chiếc iMac màu vàng trong bài này: