Trước ca phẫu thuật, bạn nhớ mình đang đếm ngược, 10... 9... 8... 7… 6… và rồi thức dậy, ca phẫu thuật đã xong trước khi bạn đếm đến 5. Có vẻ như bạn vừa ngủ quên, nhưng thực ra không phải thế, bạn bị gây mê và quá trình này phức tạp hơn ngủ nhiều, khi đó, bạn bị mất ý thức, không thể cử động, không đau đớn và không nhớ bất cứ điều gì. Nếu không có phương pháp gây mê, rất nhiều ca phẫu thuật sẽ rất đau đớn khi thực hiện.
Những loại thuốc gây mê nguyên thủy được nhắc đến trong các tài liệu y học cổ từ Ai Cập, Châu Á và Trung Đông với nguyên liệu chính từ cây thuốc phiện và rượu. Ngày nay, bác sĩ gây mê dùng 3 phương pháp chính đó là gây tê cục bộ, gây mê dạng hít và gây mê bằng cách tiêm tĩnh mạch, tùy vào yêu cầu của cuộc phẫu thuật.
Gây tê cục bộ
Gây tê cục bộ ngăn chặn cơn đau đớn từ một phần cụ thể của cơ thể truyền đến não bộ. Cơn đau được truyền đến hệ thần kinh nhờ vào các tín hiệu xung điện. Gây tê cục bộ hoạt động bằng cách kết hợp với protein ở màng tế bào của nơ-ron thần kinh để ngăn chặn các tín hiệu điện. Một hợp chất được dùng thường xuyên như một chất gây tê là cocaine, ngoài ra còn rất nhiều chất gây tê cục bộ phổ biến khác có một cấu trúc hóa học và hoạt động theo cách tương tự.
Những loại thuốc gây mê nguyên thủy được nhắc đến trong các tài liệu y học cổ từ Ai Cập, Châu Á và Trung Đông với nguyên liệu chính từ cây thuốc phiện và rượu. Ngày nay, bác sĩ gây mê dùng 3 phương pháp chính đó là gây tê cục bộ, gây mê dạng hít và gây mê bằng cách tiêm tĩnh mạch, tùy vào yêu cầu của cuộc phẫu thuật.
Gây tê cục bộ
Gây tê cục bộ ngăn chặn cơn đau đớn từ một phần cụ thể của cơ thể truyền đến não bộ. Cơn đau được truyền đến hệ thần kinh nhờ vào các tín hiệu xung điện. Gây tê cục bộ hoạt động bằng cách kết hợp với protein ở màng tế bào của nơ-ron thần kinh để ngăn chặn các tín hiệu điện. Một hợp chất được dùng thường xuyên như một chất gây tê là cocaine, ngoài ra còn rất nhiều chất gây tê cục bộ phổ biến khác có một cấu trúc hóa học và hoạt động theo cách tương tự.
Gây mê dạng hít
Nhưng với nhiều cuộc phẫu thuật phức tạp, bác sĩ cần tác động lên toàn bộ hệ thống thần kinh để bạn mất đi ý thức. Đó là điều mà chất gây mê dạng hít làm được, trong y học phương Tây, Diethyl Ether được xem là chất gây mê dạng hít đầu tiên. Nó được biết như thuốc giải khuây, cho tới khi các bác sĩ nhận ra rằng nhiều người không chú ý tới những vết thương khi họ dùng thuốc.
Những năm 1840, Diethyl Ether được dùng gây mê bệnh nhân trong khi nhổ răng hay phẫu thuật. Một loại khác là Oxit nitrơ thông dụng hơn vào những thập kỷ sau đó và vẫn còn dùng đến tận bây giờ, mặc dù những dẫn xuất từ Ether, như chất sevoflurane thì phổ biến hơn.
Gây mê bằng cách tiêm tĩnh mạch
Gây mê bằng cách tiêm tĩnh mạch được phát triển vào những năm 1870. Chất được tiêm vào tĩnh mạch bao gồm Propofol làm giảm nhận thức và Opioids để giảm đau. Chất gây mê này hoạt động bằng cách ảnh hưởng những tín hiệu điện trong hệ thống thần kinh.
Bình thường tín hiệu não như một bản hợp xướng lộn xộn bởi vì những bộ phận khác nhau giao tiếp với nhau, sự kết nối đó làm bạn có ý thức. Nhưng khi bị gây mê, những tín hiệu đó sẽ không còn lộn xộn nữa, có nghĩa là những vùng khác nhau ở não bộ không kết nối với nhau nữa. Ta chưa thực sự hiểu rõ những gì xảy ra trong não nhưng có thể hình dung một cách đơn giản là chất gây mê kết hợp với GABA-A ở nơ ron thần kinh não bộ, tích trữ lại các electron trong tế bào, các electron này ngăn chặn việc truyền các tín hiệu điện.Tác dụng phụ của chất gây mê
Quảng cáo
Hầu hết chất gây mê không chỉ hoạt động trên hệ thống thần kinh mà còn ảnh hưởng đến tim, phổi hay các cơ quan quan trọng khác, gây ra tác dụng phụ nghiêm trọng. Nên bác sĩ gây mê cần phải pha thuốc đúng liều lượng để gây mê toàn diện, trong khi theo dõi cẩn thận phản ứng bệnh nhân để có những biện pháp ứng phó khi cần thiết.
Gây mê tuy phức tạp nhưng là một bước tiến lớn trong y học, nhờ nó mà bác sĩ phẫu thuật có thể thực hiện các ca mổ phức tạp như ghép nội tạng. Mỗi năm, kĩ thuật gây mê mới lại phát triển để chắc rằng sẽ có nhiều bệnh nhân nữa sống sót qua những cuộc phẫu thuật đau đớn.
Nguồn: TED-Ed