Bơi là một trong những môn thể thao phổ biến và nổi tiếng nhất thế giới với nhiều cuộc thi được tổ chức. Theo thống kê, Hội Chữ thập đỏ Mỹ đào tạo gần 1 triệu người mới biết bơi mỗi năm thông qua chương trình An toàn nước. Ước tính có đến 75-90% dân số Mỹ biết bơi hơn là tham gia bất kỳ môn thể thao nào khác. Cùng với bơi lội, các môn thể thao dưới nước cũng dần trở nên phổ biến. Tuy nhiên, con người không thực sự được “thiết kế” để bơi lội, vậy tại sao chúng ta lại bơi?
Người ta phỏng đoán rằng chính cơn đói đã thúc đẩy những người đầu tiên rời khỏi vùng an toàn mặt đất tiến vào biển cả tìm kiếm thức ăn. Và quá trình thích nghi này phải mất đến hàng thiên niên kỷ trước khi họ cảm thấy đủ thoải mái trong nước để thực sự tận hưởng nó.
Những ghi chép sớm nhất về bộ môn bơi lội đang được bảo quản ở Bảo tàng Anh cho thấy, những người lính Assyria đã bơi qua 1 dòng suối vào thế kỷ thứ 9, dưới sự trợ giúp của bong bóng động vật được thổi phồng khí.

Người ta phỏng đoán rằng chính cơn đói đã thúc đẩy những người đầu tiên rời khỏi vùng an toàn mặt đất tiến vào biển cả tìm kiếm thức ăn. Và quá trình thích nghi này phải mất đến hàng thiên niên kỷ trước khi họ cảm thấy đủ thoải mái trong nước để thực sự tận hưởng nó.
Những ghi chép sớm nhất về bộ môn bơi lội đang được bảo quản ở Bảo tàng Anh cho thấy, những người lính Assyria đã bơi qua 1 dòng suối vào thế kỷ thứ 9, dưới sự trợ giúp của bong bóng động vật được thổi phồng khí.
Cấu tạo cơ thể con người không phù hợp để bơi lội
Carroll L. Bryant, người từng điều hành An toàn Dưới nước của Hội Chữ thập đỏ cho biết rằng để con người có thể thoải mái trong môi trường nước, cổ của người đó cần phải dài hơn 15cm, và đùi ngắn hơn 15cm. Nhưng tỷ lệ như thế lại không hề phù hợp với cơ thể con người. Tư thế đứng thẳng tự nhiên giúp con người hoạt động tốt trên cạn lại tạo ra một lực cản lớn trong môi trường nước. Hơn nữa, mật độ cơ thể của con người tạo ra một trọng lượng riêng khiến việc chết đuối trở nên dễ dàng hơn là việc sống sót.

Với một con người bình thường, khi chìm trong nước và bất động. Người đó phải thực hiện một số chuyển động, nếu chỉ nhấc đầu đủ cao khỏi mặt nước để tiếp nhận không khí, người đó sẽ không thể đi bộ hoặc tạo ra các chuyển động tương tự như hầu hết các động vật bốn chân có thể làm. Bởi vì diện tích chân nhỏ, lực phản nước mà con người có thể đạt được không đủ lớn để giữ được con người đứng thẳng.
Do đó, để giữ được khuôn mặt của mình ở gần bề mặt trong 1 khoảng thời gian, con người cần phải nằm ở chiều ngang, lợi dụng sự hỗ trợ của sức nổi nước. Tuy nhiên, để tạo ra các di chuyển, con người cần phải thực hiện các chuyển động lớn, cần đến tất cả sự phối hợp các chi, đòi hỏi kỹ năng giữ thăng bằng. Vì những lý do này mà hầu hết con người cần được dạy bơi để có được kỹ năng này.
Thế nhưng, những người đầu tiên bơi lội cách đây từ hơn 100.000 năm trước đã tự học cách bơi, để kiếm thức ăn và cả giải trí. Có một lịch sử lâu dài về việc con người bơi lội vì mục đích giải trí và tiện ích, thông qua các bức tranh hang động có niên đại lâu đời nhất và cả qua những câu chuyện dân gian được lưu truyền.
Những người đầu tiên bơi lội

Theo đó, người Neanderthal sống ở Ý khoảng 100.000 năm trước được cho là thường xuyên bơi. Từ xương tai các nhà khảo cổ phát hiện người Neanderthal mắc phải 1 căn bệnh về tai, thường bắt gặp ở các vận động viên bơi lội khi lặn sâu 3-4m. Theo phỏng đoán, rất có thể người Neanderthal lặn sâu xuống biển 3-4m để thu thập vỏ sò rồi tạo tác thành công cụ dùng trong đời sống hàng ngày.
Đến thời Kỷ băng hà cách đây 23.000 năm, khi các sông băng chảy về phía nam đến Anh, Đức, Ba Lan và vùng phía Bắc nước Nga, hoạt động bơi lội đã bị lãng quên trong suốt 1 thời gian dài. Trong hàng chục nghìn năm tiếp theo, con người không biết bơi.
Quảng cáo

Trên khắp lục địa Á- Âu, người dân bắt đầu chuyển sang trồng các loại lương thực như lúa mì và kê để làm bánh mì. Đồng thời cũng dần ăn ít cá hơn, một loại thực phẩm vốn chứa nhiều vitamin D. Vì thế để hấp thụ nhiều ánh sáng Mặt trời để sản xuất đủ lượng Vitamin D mà cơ thể cần thiết để trở nên khoẻ mạnh, những quần thể này bắt đầu phát triển làn da sáng hơn. Một số người họ sau đó di cư về phía nam và con cháu của họ - người Hy Lạp, La Mã, Scythia và Iran cũng không có thói quen bơi lội cho đến cuối thời đại đồ đồng.

Hàng ngàn năm nữa trôi qua và sau đó những bức tranh đá tại Tassili n’ Ajjer ở miền nam Algeria mô tả những người đang di chuyển trong tư thế nằm ngang với hai cánh tay dang rộng, rất giống động tác bơi.

Đến năm 8000 TCN, trong hang động ở phía tây Ai Cập, những hình người nhỏ màu đỏ đang bơi đã xuất hiện.
Quảng cáo

5000 năm nữa trôi qua, các văn bản và hình ảnh tượng hình của người Ai Cập dần tràn ngập các hình ảnh người đang bơi lội. Từ các vị pharaoh cho đến những người Ai Cập ở tầng lớp thấp hơn, trẻ nhỏ vs phụ nữ cũng bơi.
Trong khi đó, bơi lội rất phổ biến trên khắp lục địa châu Phi. Nhiều mẫu chuyện về bơi lội được tìm thấy trong các câu truyện truyền thống. Chẳng hạn như chuyện “Hai người vợ ghen tuông” của người Ethiopian, hai em bé sinh đôi bị ném xuống sông đã được những người đang bơi lội phát hiện và nhanh chóng cứu sống. Hay một câu chuyện hài hước nổi tiếng ở Tây Phi kể về một người phụ nữ keo kiệt háo hức nhảy xuống sông để bơi tìm một hạt đậu.
Những kiểu bơi lâu đời nhất thế giới
Overham là kiểu bơi lâu đời nhất mà cho đến hiện nay con người tìm thấy mô tả. Trong những hình ảnh thời Ai Cập, Hittite, Hy Lạp và La Mã thời kỳ đầu, người ta nhận thấy người dân khi đó bơi luân phiên 2 tay và đôi khi dùng 1 cú đá rung chân thẳng. Khi đó, các vận động viên bơi lội Hy Lạp và La Mã không được úp mặt xuống nước và bơi ếch hoàn toàn không xuất hiện trong các hình ảnh và tài liệu xưa.

Phaedrus là tác phẩm của Plato đầu tiên đề cập đến động tác bơi ngửa. Còn bơi nghiêng được chọn khi người bơi cần đẩy thuyền hoặc đang vận chuyển hàng hoá qua mặt nước. Người Assyria được cho là người tạo ra các phao nổi hỗ trợ sớm nhất. Họ đã tạo ra phao nổi làm từ da dê để có thể nổi trên các con sông chảy xiết ở miền đông Syria và miền bắc Iraq.
Chế độ nô lệ
Các nhà khoa học nhận thấy rằng thời tiết ấm áp không phải là yếu tố chính để quyết định việc một cộng đồng có bơi lội hay không, mà còn ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố văn hoá và chính trị khác. Bơi lội thường là bộ môn dành cho nam giới. Còn ở phụ nữ và trẻ em gái, việc dìm dưới nước thường là 1 cách trừng phạt ở châu Âu trong nhiều thế kỷ khi họ bị nghi ngờ là phù thuỷ hay phạm tội.

Trong khi đó, mối liên hệ giữa bơi và chế độ nô lệ phổ biến trong cộng đồng những người buôn bán nô lệ Hồi giáo. Những người nô lệ lặn để làm sạch tàu, làm nhân viên cứu hộ cho những người da trắng bơi lội, trục vớt hàng hoá bị mất trong các vụ đắm tàu, hay lặn vớt ngọc trai ở châu Mỹ.
Giáo sư J. Wesley Van der Voort tại đại học Washington cho biết bơi lội được coi là một thú tiêu khiển của giới thượng lưu, nhưng lại là 1 trong những kỹ năng phải có của tầng lớp nô lệ.
Tại sao con người có thể bơi nhưng loài vượn thì lại không?

Hầu hết các loài động vật có vú đều có thể bơi theo bản năng mà không cần trải qua huấn luyện, ngoại trừ 1 số trường hợp như vượn. Nguyên nhân là vì tổ tiên sống trên cây của loài vượn có ít cơ hội di chuyển trên mặt đất, vì thế chúng phát triển các cách thay thế khác để băng qua những con sông, ví dụ như lội ở tư thế thẳng đứng hay đu dây. Dần dần, chúng đã mất đi bản năng bơi lội hoặc đơn giản là nghĩ đến giải pháp đó. Giống như loài vượn, con người cũng không bơi theo bản năng, nhưng khác ở chỗ, con người lại bị thu hút bởi nước và đã vượt qua ranh giới tự nhiên để học bơi và lặn.
Theo (1), (2), (3)