PHẦN 13: ĐẠI CHIẾN QUÂN ÂN (1)
Đây nói về chủ soái Nguyên Dực, thống lãnh hơn 10 vạn quân bọc theo hướng Tây đồi Vạn Lâm, chận đánh đường rút lui quân Ân, rồi thẳng xuống Đông Bắc, chiếm lại thành Kinh Châu. Đại quân bọc Tây cách đồi Vạn Lâm hơn 15 dặm thời nghe như có trận chiến, những người có nội công thâm hậu mới có cảm giác nghe được.
Nguyên Dực lấy làm lạ tự hỏi: Không lẽ đồi Vạn Lâm đã xảy ra trận chiến. Nguyên Dực nghĩ không thể như thế được, nếu có trận chiến xảy ra phải đến chiều mai, quân Ân mới đến được đồi Vạn Lâm, không thể sớm như vậy được, lại nữa trời đã hừng sáng. Đại quân cũng sắp qua khỏi địa phận Huyện Bắc Sơn Ninh Châu, đến Huyện Nam Tây Sơn Kinh Châu, trong lòng Nguyên Dực cứ mãi không yên, liền cho quân dừng nghĩ, cho hai toán quân đi thám thính, một là thám thính địa phận Huyện Tây Sơn Kinh Châu, hai là thám thính Đồi Vạn Lâm xem chuyện gì đã xảy ra.
Chủ soái Nguyên Dực hỏi:
Các tướng có nghe thấy gì không?
Có người nói:
Không nghe thấy gì cả.
Có người nói:
Hình như có trận chiến xảy ra.
Hai toán quân thám báo đi chưa được bao lâu thời liền quây trở lại cấp báo:
Bẩm chủ soái đồi Vạn Lâm đã xảy ra trận chiến, không biết thua thắng thế nào.
Toán quân thứ hai báo:
Bẩm chủ soái quân Ân cờ xí rợp trời đã vượt qua Huyện Tây Sơn tiến đánh chúng ta.
Chủ Soái Nguyên Dực ra lệnh:
Hãy bày binh bố trận.
Hiệu lịnh cờ trận phất lên, tức tốc đại quân duy chuyển chiếng trống nổi lên đại quân nhanh chóng lập thành ngũ hành trận, trung ương trận liền dựng lên một cái đài cao bảy thước, chủ soái Nguyên Dực trực tiếp chỉ huy. Đài vừa dựng xong thời quân Ân cũng vừa kéo đến, cờ xí rợp trời, dẫn đầu là một Tướng nữ trung niên vô cùng xinh đẹp.
Nguyên Dực hỏi:
Biết nữ Tướng đó là ai không?
Tức thời có người đáp:
Nhìn lá cờ lớn có hai chữ Sát Sát, thời cũng biết nữ Tướng trung niên xinh đẹp kia là vợ lớn của Ân Mao Vương, Ân Mao Vương có hai người vợ vô cùng lợi hại, khắc tiếng nước Man Du, đó là Sát Sát Ân Nương Nương, và Nghịch Phong Ân Nương Nương.
Người hiểu rõ về nữ Tướng giặc Ân đó là ai vậy, không ai khác hơn là Hầu Thái Công.
Đây nói về Sát Sát nữ Tướng giặc Ân, rầm rầm rộ rộ kéo quân tới, thấy quân Văn Lang đông như kiến, đã bày binh bố trận xong xui, sát khí trùng trùng.
Sát Sát hỏi:
Đây có phải là ngũ hành trận nổi tiếng mấy nghìn năm của quân Văn Lang không? Đã từng đánh bại nhiều quân xâm lược có phải không?
Có một vị Đạo Sĩ mặt xanh râu dài nói:
Bẩm Nương Nương quả đúng đây là trận ngũ hành, không dễ gì phá được, quân binh chuyển biến khó lường.
Sát Sát nói:
Không phá cũng phải phá, ngươi thử ước lượng phá trận ngũ hành nầy cần bao nhiêu quân.
Đạo Sĩ thưa:
Bẩm Nương Nương phải trên 15 vạn quân, ba vạn quân đánh một cửa, 12 vạn quân đánh bốn cửa, còn ba vạn quân thời đánh vào nơi trọng yếu của ngũ hành trận.
Sát Sát nghĩ mình có hơn 8 vạn quân thời khó mà đánh, liền cho người đến đồi Vạn Lâm, điều động quân binh Võ Vu bổ sung cho đủ quân số chịu trách nhiệm đánh Đông ngũ hành trận. Lại cho người tới Huyện Ninh Điền, điều động quân Hồ đánh vào cánh Nam ngũ hành trận.
Sát Sát ra lệnh:
Hồ Phiên nghe lịnh, có thuộc hạ, Tướng quân thống lĩnh ba vạn quân, chịu trách nhiệm đánh cánh Tây ngũ hành trận, thuộc hạ tuân lịnh. Tào Côn thống lãnh 3 vạn quân chịu trách nhiệm đánh Bắc ngũ hành trận.
Nói về Võ Vu tuy thắng trận ở đồi Vạn Lâm nhưng cũng đi tiêu hơn một vạn quân, vẫn còn đang khiếp vía trước tinh thần chiến đấu anh dũng của quân Văn Lang, còn hai vạn quân rút ra khỏi đồi Vạn Lâm chờ lịnh. Tính tới tính lui chỉ còn một vạn rưởi quân là còn chiến đấu được, còn hơn năm nghìn quân bị thương tơi tả không dùng được, thời thở dài quân Văn Lang quả là quân Thần, quân Thánh, trong lúc đang thở dài, thời có chỉ lệnh đưa đến, mau tức tốc đến Huyện Bắc Sơn Ninh Châu, bổ sung quân cho đủ ba vạn chịu trách nhiệm đánh cửa Đông ngũ hành trận quân Văn Lang.
Nói về Hồ Man Quân tuy thắng trận nhưng cũng đi tiêu mất hai vạn quân, Hồ Man Quân khi thống lãnh quân binh tràn qua đất Văn Lang, đánh đâu thắng đó một cách dễ dàng, giết hơn mấy Vua Việt, chiếm lấy Châu, Huyện, một cách dễ dàng, sanh ra kiêu ngạo, không coi quân Văn Lang vào đâu. Không ngờ đụng phải quân chủ lực Văn Lang, một loại quân anh dũng kiên cường, chiến đấu không khác gì loài mãnh hổ. Tử chiến không bỏ chạy chiến đấu quyết liệt, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Tuy lọt vào vòng vây hiểm địa nhưng anh dũng đánh bật lại bất ngờ quân Hồ kinh khiếp, bỏ mạng hơn hai vạn quân. Quả là quân Thần, quân Thánh.
Hồ Man Quân được lệnh điều động quân đến Huyện Bắc Sơn Ninh Châu, chịu trách nhiệm đánh thẳng vào cánh Nam ngũ hành quân Văn Lang, Hồ Man Quân tức thời điều động quân binh lên đường ngay, không bao lâu thời tới Huyện Bắc Sơn, đứng xa xa nhìn thấy Nam trận ngũ hành sát khí trùng trùng, thời nghĩ thầm, phương Nam có trận pháp ngũ hành lợi hại vô cùng, biến hóa khó lường, muốn phá trận ngũ đâu phải dễ không kéo thời bỏ mạng như chơi.
Bằng viết mật thư gởi cho Hồ Nghi Vương. Đại ý mật thư nói rằng: Quân Ân liên kết với quân Hồ ta, đã chiếm lấy thành Kinh Châu, đánh bại 5 vạn quân chủ lực Văn Lang ở đồi Vạn Lâm, quét sạch 5 vạn quân chủ lực Văn Lang ở tại Huyện Ninh Điền, giờ lại tiến đánh phá đại quân chủ lực Văn Lang tại Huyện Bắc Sơn Ninh Châu, thời coi như chiếm lĩnh toàn bộ Bắc Văn Lang. Chúng ta nhân cơ hội phá trận nầy, chiếm luôn thành Ninh Châu, trước quân Ân.
Nói về Hồ Nghi Vương lòng đầy tham vọng, hầu muốn nuốt nhanh chóng Tây Bắc Văn Lang, chỉ cần nuốt được Kiến Châu, thời coi như đã nuốt trọn Tây Văn Lang, nhưng chưa tìm ra cách chiếm lấy thành Kiến Châu, vì thành Kiến châu kiên cố, lại có cha con Châu Phủ Châu An, tài giỏi nhất là Châu Tiên. Có pháp thuật thần thông cao cường, lại thêm quân binh quyết lòng chống trả. Nên không dễ gì chiếm thành trong ngày một ngày hai được. Hồ Nghi Vương cũng không dại gì công phá thành, khi chưa nắm được phần thắng. Chỉ cần bao vây thành Kiến Châu, thời thành Kiến Châu sớm muộn gì cũng vào tay mình. Đang lúc cho người tom góp ngọc ngà châu báu đã vơ vét từ các Quận Huyện, Châu Phủ, mười mấy xe, lúa gạo, trâu bò, dê lợn, gà vịt, nhiều vô số kể, nhất là trẻ con thời không gì bằng, chúng nấu hầm mà tẩm bổ, quân Hồ, quân hung Nô, uống máu ăn thịt người là chuyện bình thường. Trong lúc hai con mắt hau háu nhìn vàng bạc châu báu ớn thời sang qua nhìn những cô gái tơ có vẻ khoang khoái lắm, gái tơ chính là sở thích của yêu Hồ, tính đưa tay chụp một cô nõn nà, thời có người vào báo:
Bẩm Chúa Vương, có người đưa thư đến.
Hồ Nghi Vương cho đòi người đưa thư vào, đó là một quân thám báo thân cận của Hồ Man Quân. Hồ Nghi Vương đọc xong ra chiều suy nghĩ, rồi kêu Hồ Mị Hoa đến nói:
Con thống lãnh 2 vạn quân tới trợ giúp cho chú con Hồ Man Quân, tiêu diệt quân chủ lực Văn Lang đang đóng ở Huyện Bắc Sơn Ninh Châu. Hồ Man Quân là em của Hồ Nghi Vương, phá trận ngũ hành quân Văn Lang xong, nhanh chóng chiếm lấy thành Ninh Châu.
Hồ Mị Hoa liền thống lãnh 5 vạn quân nhanh chóng đến Huyện Bắc Sơn, theo mật thư của Hồ Man Quân.
PHẦN 14: ĐẠI CHIẾN QUÂN ÂN (2)
Đây nói về chủ soái Nguyên Dực, ở trên đài quan sát thấy quân Ân đang chuyển động quân binh, từ bốn hướng kéo đến bốn cửa trùng trùng điệp điệp. Có lẽ chuẩn bị phá trận. Tức thời phân bổ các Tướng thống lĩnh quân binh trấn giữ ngũ hành trận, chuẩn bị cho trận chiến quyết tử cao độ nhất.
Chủ Soái Nguyên Dực ra lệnh:
In Đô Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân cùng hai phó nữ Tướng là La Ha, Tiên Ngung. Thống lãnh hai vạn quân, chia làm chia làm năm đạo quân. Bộ binh, xa binh, kỵ binh, xạ binh, giáp binh. Trấn thủ tại trung ương hành kim, lập đài quan sát phất cờ chỉ huy, tuân lịnh.
Lô Gô Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân cùng hai phó Tướng là Phô Rô, Cam Bô, thống lãnh hai vạn quân, chia làm năm đạo quân, bộ binh, xa binh, kỵ binh, xạ binh, giáp binh, trấn thủ tại trung ương hành mộc, lập đài quan sát phất cờ chỉ huy, tuân lịnh.
Lê Anh Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân cùng hai phó Tướng quân là Đoàn Minh, Hoàng Thi, thống lĩnh hai vạn quân, chia làm năm đạo quân, bộ binh, xa binh, kỵ binh, xạ binh, giáp binh, trấn thủ Trung ương hành thủy, lập đài quan sát phất cờ chỉ huy, tuân lịnh.
Dương Điền Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân cùng hai phó Tướng quân là La Đôn, Kinh Hạ, thống lĩnh hai vạn quân, chia làm năm đạo quân, bộ binh, xa binh, kỵ binh, xạ binh, giáp binh, trấn thủ Trung ương hành hỏa, lập đài quan sát phất cờ chỉ huy, tuân lịnh.
Lý Hiển Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân cùng hai phó Tướng quân là Trịnh Đức, Mai Phi, thống lĩnh hai vạn quân, chia là năm đạo quân, bộ binh, kỵ binh, xa binh, xạ binh, giáp binh, trấn thủ Trung ương hành thổ, chuyển hóa bổ sung, hỗ trợ, những đạo quân, kim – mộc – thủy – hỏa, khi yếu hơn thế lực của địch, theo hiệu lịnh của trung ương tổng đài, tuân lịnh.
Từ thế trận ngũ hành, chuyển sang biến hóa thế trận ngũ hành, tức thời sát khí trùng trùng, mây đen ngùn ngụt, cuồng phong chuyển động, kỳ ảo lạ kỳ.
Đây nói về Sát Sát thống lĩnh quân Ân ở trên đài quan sát thấy ngũ hành trận trong phút chốc biến hóa kỳ ảo như vậy, cũng phải kinh hãi. Liền hỏi Đạo Sĩ mặt xanh râu dài:
Đạo Sĩ có biết phá trận ngũ hành nầy không?
Đạo Sĩ mặt xanh râu dài chính là thanh sư, không những có pháp thuật mà còn biết nhiều hiểu rộng. Thanh Sư nói:
Thưa Nương Nương, trận ngũ hành lợi hại là do năm ngọn cờ chính điều khiển chỉ huy, tùy theo trình độ của người chi huy mà lợi hại, nên khó mà đoán được.
Sát Sát nói:
Ta đã quan sát thấy mỗi chi ngũ hành ước lượng chỉ có hai vạn quân. Còn ta có tới ba vạn quân, số lượng hơn chúng quá lớn ta ra lịnh đồng tấn công một lượt, chỉ cần phá vỡ một chi ngũ hành, thời nhất định trận ngũ hành trận sẽ bị phá vỡ ngay.
Sát Sát lấy làm đắc ý cho cách phá trận của mình, liền ra lịnh đồng loạt tấn công.
Đây nói về Trung tâm hành kim, tín hiệu pháo lịnh đã bắn lên báo hiệu quân Ân bắt đầu tấn công. Tức thời Trung ương hành kim trên đài quan sát năm màu cờ bắc đầu chuyển động.
Nói về Hồ Phiên, thống lãnh ba vạn quân, thấy quân binh Văn Lang thưa thớt, chẳng có gì là lợi hại cả, ta chỉ cần năm nghìn kỵ binh, năm nghìn xạ binh, năm nghìn bộ binh là đánh thủng vào Trung ương ngay. Liền sai Tướng Ung Beo chỉ huy năm nghìn bộ binh ào ào xông vào trận. Khí thế tràn vào như nước lũ, bộ binh xông đến đâu thời quân Văn Lang dạt ra đến đó, tiến sâu vào hơn dặm, hò hét dậy trời. Tướng giặc Hồ Phiên cười ngất, ta cứ nghĩ ngũ hành trận lợi hại lắm, chẳng qua cũng thế thôi. Bỗng nghe chiêng trống nổi lên dạy trời, quân reo dậy đất, mây đen cuồn cuộn, phủ tới, năm nghìn quân Ân không thấy đâu nữa, chỉ nghe đao kiếm đinh tai nhức óc.
Hồ Phiên ra lịnh tức thời năm nghìn quân xạ tiễn do Hốt Ma điều khiển ào ào xông trận, quân binh lao vào như thác đổ, tìm quân địch tấn công, nhưng không thấy chi cả như lạc vào chốn hoang vu. Hốt Ma kinh hãi, đây là đâu sao kỳ lạ thế nầy, trong lúc hoang mang thời bỗng nghe chiêng trống dậy trời, thời thấy đội quân thiết giáp trong mây đen xuất hiện cắt đôi năm nghìn quân xạ tiễn. Hốt Ma kinh hãi chưa biết phải làm sao thời thấy xuất hiện hai Tướng cỡi ngựa thiết kỵ giáp lao nhanh tới chém Hốt Ma. Hốt Ma vì quá hoang mang sợ hãi hơn nữa một Tướng khó địch lại hai Tướng, trúng liền hai đao đứt làm hai đoạn, quân Ân như rắn không đầu, chỉ trong vòng chốc lát không còn một mạng.
Hồ Phiên thấy tình thế không xong, liền ra lệnh kỵ binh xung trận. Phiêu Liêu, điều khiển năm nghìn kỵ binh nhanh chóng lao vào nhập cuộc, không ngờ bị xa quân những chiếc xe đầy chông sắt lao tới tấn công, làm cho đội kỵ binh hỗn loạn, xạ binh quân Văn Lang bắn tên ra như mưa, đội kỵ binh quân Ân chết thôi là chết, thi nhau chạy thục mạng, thoát ra khỏi trận ngũ hành, chết hơn phân nửa. Hồ Phiên tái mặt than trời khóc đất, không dám đưa quân vào trận nữa, coi như đi tiêu hơn một vạn quân. Hồ Phiên bây giờ mới biết lời đồn quả không sai, nước Văn Lang có ngũ hành trận vô cùng lợi hại.
Nói về In Đô, Tiên Ngung, La Ha. Trấn thủ Tây ngũ hành, In Đô Tướng quân ở trên đài quan sát ở Trung ương hành kim, chỉ huy năm đội quân ngũ kỳ, năm màu, trắng, xanh, đen, đỏ, vàng. Tiên Ngung thống lĩnh hai đạo quân cờ trắng, cờ xanh. La Ha, thống lĩnh hai đạo quân cờ đen, cờ đỏ, ở trên đài quan sát. In Đô Tướng quân nhìn thấy quân Ân triển khai ba đạo quân, đạo bộ binh, đạo xạ binh, đạo kỵ binh, mỗi đạo ước lượng năm nghìn người. In Đô nhìn thấy đội quân bộ binh tấn công trước, liền phất cờ vàng, ra hiệu. Tiên Ngung, La Ha, thấy cờ hiệu trên quan sát đài, liền tức tốc thu quân ẩn mình trong mây trận.
Đạo quân bộ binh do Ung Beo thống lĩnh điều khiển, ào ào như nước lũ tiến vào trận, không gặp trở ngại nào cả thấy toàn là mây đen cuồn cuộn, Đạo quân cứ tiến sâu vào vùng đất hoang vu. Ung Beo vô cùng kinh hãi, liền ra lệnh cho Đạo quân lui trở ra. Khi ấy trên quan sát đài, đội kỳ cờ trắng, cờ xanh, xuất hiện theo thế bao vây. Tức thời La Ha nhanh chóng phất cờ ra lịnh hai Đạo quân, nhanh chóng lao ra bao vây, quân Ân vô cùng kinh hãi ra sức chống trả, cùng lúc ấy trên đài quan sát In Đô tự tay phất cờ vàng, tức thời hai nghìn binh thiết giáp, từ Trung ương hành kim nhanh chóng ào ào lao ra chém giết quân Ân như chém chuối loáng cái là chết sạch. Cờ trắng, cờ xanh, trên đài quan sát biến mất, thay vào đó là cờ đỏ, giáp binh, hành hỏa bao vây, cờ vàng thiết giáp kỵ binh hành thổ tấn công.
Nói về Hốt Ma nghe trận chiến rền trời rền đất nhưng không thấy vì mây đen cuồn cuộn che chắn tầm nhìn, liền điều động năm nghìn quân xạ tiễn xông vào hiệp lực tấn công. Đội quân xạ tiên tiến sâu vào không thấy Đạo quân bộ binh đâu cả, vô cùng kinh hãi chưa biết phải tiến vào đâu, thời nghe chiêng trống dậy trời. Đội quân áo giáp ào ào hiện ra bao vây, lao tới chém Đạo quân xạ tiễn quân Ân tới tấp. Hốt Ma kinh hãi ra lệnh lập trận xạ tiễn chống trả lại, nhưng không còn kịp nữa, Đạo quân thiết giáp từ sau đánh tới vó ngựa rền trời, lao vào chém quân Ân như chém chuối, chỉ trong chốc lát quân Ân chết sạch, Hốt Ma bỏ mạng sa trường.
Nói về Phiêu Liêu, Tướng giặc được lịnh tức thời điều động năm nghìn kỵ binh, tức tốc lao vào trận, xáp chiến, kỵ binh quân Ân như cuồng phong ào ào bay vào trận. Khi ấy trên đài quan sát cờ đen xa quân Đạo quân xe đầy chông sắt, xích sắt, theo thế cắt đôi quân địch, cùng lúc, cờ trắng, cờ xanh, cờ đỏ, cờ đen, đồng loạt xuất hiện tấn công. Nói về Phiêu Liêu, thống lãnh kỵ binh xông vào trận, thời không thấy Đạo quân bộ binh, Đạo quân xạ binh đâu nữa, mà chỉ thấy quân Văn Lang trùng trùng điệp điệp ẩn hiện trong mây đen, di chuyển ẩn hiện một cách kỳ lạ, chưa biết tấn công vào đâu, thời nghe xe cộ duy chuyển đùng đùng, lao ra cắt đôi kỵ binh quân Ân, tức thời bốn phương tám hướng đồng loạt tấn công. Đạo quân kỵ binh Ân chống trả không nổi, bỏ mạng vô số kể. Phiêu Liêu kinh hãi cùng kỵ binh sống sót lao ra khỏi trận, kinh hồn bạt vía.
Về sau có thơ rằng:
Tưởng rằng phá trận dễ như không
Nào hay bỏ mạng lấp vùi chôn
Ngũ hành trận pháp ôi huyền bí
Biến ảo vô cùng giặc khiếp kinh
Hơn vạn giặc Ân trong nháy mắt
Vùi chôn thân xác chẳng còn tên
Kinh hồn bạt vía quân ăn cướp
Bỏ mạng tàn đời lũ yêu tinh
Nghe chiến trận gươm đao gào thét
Cõi trời Nam đau xót muôn dân
Hỡi giặc Ân nầy hỡi giặc Ân
Cớ sao mi lại chiếm xâm cõi bờ
Giờ đến lúc từ già đến trẻ
Hãy đứng lên chống trả quân thù
Đã chung dòng máu đồng bào
Tay gươm tay giáo quyết nào tử sanh.
PHẦN 15: TỬ CHIẾN
Nói về Lô Gô, Phô Rô, Cam Bô. điều khiển hai vạn quân binh, trấn giữ hành mộc, nơi Trung ương hành mộc. Phô Rô, thống lĩnh hao Đạo quân, cờ trắng, cờ xanh, Cam Bô, thống lĩnh hai Đạo quân, cờ đen, cờ đỏ, trên đài quan sát, Lô Gô thấy từ xa từ nơi đại quân Ân ba Đạo quân cùng một lúc xuất phát, Đạo quân bộ binh, Đạo quân xạ binh, đạo quân kỵ binh, mỗi Đạo quân năm nghìn quân, đồng loạt tấn công Đông ngũ hành, với khí thế như cuồng phong vũ bão, quân Ân ào ào lao vào trận.
Ỷ mình cậy thế quân đông
Ào ào lao tới phá tan ngũ hành
Ba đạo quân cuồn cuộn xông vào
Gươm, đao, giáo, mác, sáng ngời khiếp kinh.
Lô Gô nhìn thấy quân giặc tấn công một lúc ba Đạo quân như vậy, liền phất cờ cho bốn Đạo quân ẩn sâu vào trận, phất cờ phong trận lên hư không, tức thời từ nơi đài cao Trung ương ngũ hành mây đen, mây trắng cuồn cuộn bay ra phủ kín bốn Đạo quân Văn Lang.
Đây nói Võ Vu, đã từng nghe tiếng ngũ hành trận vô cùng lợi hại, nếu không đưa quân đánh tốc chiến, tốc thắng, liên kết ba Đạo quân với nhau, thời khó mà phá được, liền ra lệnh cho ba Đạo quân cùng một lúc tiến vào, Lỗ Đại Đạo quân kỵ binh, Tấn Beo đạo quân xạ binh, Ngụy Hàn Đạo quân bộ binh. Ba Đạo quân ào ào xông vào trận, thời như lạc vào vùng đất mênh mông mây đen, mây trắng, cuồn cuộn, không thấy một bóng người, quân Ân vô cùng sợ hãi không biết quân địch ở phương nào mà tấn công, ba Đạo quân Ân bỗng thấy một Đạo quân xuất hiện, tấn công chúng, chúng liền hiệp lực lao tới tấn công, hai bên giao tranh giữ dội, quân Văn Lang chống trả không lại liền bỏ chạy, quân Ân liền đuổi theo, bỗng quân Văn Lang biến mất. Quân Ân vô cùng kinh hãi, chưa kịp biết phải làm sao, thời nghe chiêng trống dậy trời, tên bắn ra như mưa.
Lỗ Đại, Tấn Beo, Ngụy Hàn, la lớn, rút lui, rút lui, chúng ta đã lọt vào ổ phục kích, quân Ân rối loạn, quân Văn Lang dốc toàn lực lượng phản công, chớp nhoáng, sấm sét, từ bốn phương tám hướng đánh tới tấp, quân Ân đạp lên nhau mà chạy. Lỗ Đại, Tấn Beo, Ngụy Hàn, ra sức thoát ra khỏi trận nhưng không biết cửa ra ở đâu, bằng phóng ngựa hầu tìm đường tẩu thoát, Lỗ Đại bỗng nghe một tiếng quát to như sấm, ta chờ ngươi ở đây đã lâu, nộp mạng đây, tức thời từ trong mây trắng một người xuất hiện, oai phong lẫm liệt, múa trường thương người ngựa lao tới đâm Lỗ Đại một nhác. Lỗ Đại múa giáo chống đỡ, hai bên đánh nhau mấy hiệp, Lỗ Đại quày ngựa bỏ chạy. Tướng Văn Lang quát, chạy đâu cho thoát, tức thời bắn một phát, Lỗ Đại trúng tên độc nhào xuống ngựa bỏ mạng, người bắn chết Lỗ Đại chính là Phô Rô.
Nói về Tấn Beo không ngờ ngũ hành trận lợi hại như vậy, vào trận thời được nhưng ra thời không biết đường, đang phi ngựa tìm đường tẩu thoát, thời thấy đội quân thiết giáp chận đường, liền quày ngựa chạy ngược trở lại, nào ngờ hai bên tên bắn ra như mưa, Tấn Beo trúng tên khắp mình bỏ mạng.
Nói về Ngụy Hàn, đằng sau kỵ binh rượt đuổi, trước mắt là xạ binh bao vây, Ngụy Hàn không còn đường nào khác là thúc ngựa lao vào xạ binh, không ngờ thoát ra khỏi trận, quân Ân ào ào xông tới chận đứng quân Văn Lang không cho truy sát Ngụy Hàn. Ngụy Hàn trúng tên khắp mình nhưng chưa chết hẳn, nói với Võ Vu rằng, quân ta chết hết rồi. Ngụy Hàn nói xong thời tắc thở, hồn chầu âm phủ. Võ Vu kinh hãi, không dám đưa quân vào phá trận nữa.
Nói về Lô Gô ở trên đài quan sát, thấy quân Ân đã lọt hết vào trận, tức thời phất cờ trận dụ quân Ân sa vào bẫy lưới phục kích, quân Ân không hiểu sự biến ảo của ngũ hành, rượt đuổi quân Văn Lang, thế là quân Ân bị tấn công tới tấp, dẫn đến rối loạn. Lô Gô liền phất cờ hiệu vàng, tức thời đội quân thiết giáp từ Trung ương hành mộc kéo ra chận đứng cửa ra, quân Ân kinh khiếp rối loạn tháo chạy trở ra, liền bị Đạo quân thiết giáp Văn Lang đánh bật trở vào, không biết nơi nào là đường trở ra nữa, chạy toán loạn bị quân Văn Lang hốt sạch không còn một mạng.
Về sau có thơ rằng:
Ngũ hành trận pháp của Ông Cha
Đã từng vùi dập giặc can qua
Lẫy lừng trận pháp rền sông núi
Khiếp vía hồn kinh lũ yêu ma.
Đây nói về Hồ Man Quân, cùng Hồ Mị Hoa, thấy ngũ hành trận sát khí trùng trùng, nhất là nơi trung tâm ngũ hành trận mây đen, mây trắng, cuồn cuộn, như có một quyền lực vô tận, làm cho ngũ hành trận biến hóa khó lường.
Hồ Mị Hoa bằng nói với Hồ Man Quân rằng:
Khi con học Đạo với thầy con, thầy con có nói nước Văn Lang có ngũ hành trận vô cùng lợi hại. Nhưng lợi hại hơn nữa là còn tùy thuộc vào cơ trí của người điều khiển, không nên xem thường, phải hết sức bình tỉnh mới phá được, chỉ cần phá được một phương ngũ hành, thời bốn phương ngũ hành kia tức thời yếu đi, nhờ đó quân ta mới phá tan ngũ hành nhanh chóng.
Hồ Cổn Quân nói:
Để con tiên phong phá trận cho, bằng điểm một vạn binh mã, bộ binh, kỵ binh, xạ binh.
Hồ Mị Hoa nói:
Cháu thống lĩnh hai vạn quân theo sau yểm trợ.
Hồ Man Quân lấy làm yên lòng vì hiểu rõ tài phép của Hồ Mị Hoa.
Nói về Dương Điền, La Đôn, Kinh Hạ, thống lĩnh quân binh trấn giữ phương Nam hành hỏa. Trên đài quan sát, Dương Điền thấy quân Hồ đông như kiến, từ đại quân tách ra một đạo quân ước lượng một vạn quân, bộ binh, xạ binh, kỵ binh, nhanh chóng xông vào trận. Tức thời trên đài quan sát xuất cờ trắng, cờ xanh hiệu lịnh tấn công, chậm đứng thế mạnh ồ ạt tấn công quân địch. Thế là gươm đao giáo mác, quân reo ngựa hí dậy trời, hai bên xáp chiến long trời lở đất.
Thế là trận chiến long trời
Ngựa người lao tới ầm ầm kinh thiên
Giáo gươm dậy núi dậy non
Chiêng rền, trống dội bụi bay mịt mù
Quân Ân ỷ mạnh tràn vào
Sóng người cuồn cuộn khác nào thác tuôn
Trên đài cờ phất rút lui
Văn Lang quân tướng thi nhau ẩn mình
Quân Hồ rượt đuổi ầm ầm
Nào hay chẳng thấy quân thù nơi đâu
Quân Hồ kinh hãi, hãi kinh
Lạc vào ổ phục quân binh dậy trời.
Đây nói về quân Văn Lang, chiến đấu quyết liệt với quân Ân giả đò thua bỏ chạy, quân Ân rượt đuổi theo ầm ầm, chỉ trong vòng chớp mắt quân Văn Lang biến mất, mây đen mây trắng cuồn cuộn bao phủ. Quân Hồ lạc mất phương hướng không biết quân địch ở chỗ nào, đang hoang mang kinh hãi. Thời nghe chiêng trống dậy trời quân reo dậy đất, tên từ bốn phương tám hướng bắn như mưa. Quân Hồ trúng tên chết la liệt, hỗn loạn đạp lên nhau mà chạy, chạy chỗ nào cũng bị quân Văn Lang nhưng đội quân ma quỷ, bám theo chém giết ầm ầm.
Nói về Hồ Cổn, thấy quân Văn Lang chống trả không lại bỏ chạy, liền thúc quân lao theo chém giết hò hét dậy trời. Bỗng thấy mây đen, mây trắng, cuồn cuộn kéo tới tức thời quân Văn Lang biến mất. Hồ Cổn kinh hãi không biết địch ở nơi nào, lại lạc mất phương hướng không biết đâu là Đông Tây Nam Bắc, liền ra lịnh thối lui, nhưng không còn kịp nữa, bốn phương tám hướng chiêng trống dậy trời quân reo dậy đất tên bắn ra như mưa, chết thôi là chết.
Hồ Cổn tìm đường tẩu thoát nhưng nơi nào cũng toàn là quân Văn Lang tên bắn xối xả. Hồ Cổn cùng tốp kỵ binh phá vòng vây thoát ra, chạy một hơi nhưng không thấy lối ra đâu cả kinh hoàng khiếp vía, bỗng nghe tiếng quát chạy đâu cho thoát tức thời kỵ binh thiết giáp xuất hiện bao vây. Kỵ binh quân Hồ liều mình chống trả, nhưng chống trả làm sao nổi bỏ mạng lớp lớp. Hồ Cổn liều mình phá vòng vây bỏ chạy thục mạng, không biết là mình chạy đến nơi nào. Bỗng nghe tiếng quát chạy đâu cho thoát, tức thời ba người xuất hiện chận đầu. Hồ Cổn càng thêm khiếp vía, người ở bên phải nói để thuộc hạ đưa tên nầy về chầu âm phủ. Tức thời múa đao thúc ngựa lao tới chém Hồ Cổn một đao như trời giáng. Hồ Cổn múa giáo chống đỡ, choang đinh tai nhức óc. Hồ Cổn mạnh vô cùng, không dễ gì một đao mà hạ gục được. Người bên trái thấy thế nói, tên Tướng giặc nầy quả là lợi hại để thuộc hạ lao ra hợp sức hạ gục cho rồi. Tức thời múa đao thúc ngựa lao ra chém tới tấp vào Hồ Cổn. Hồn Cổn võ nghệ cao cường khó mà hạ gục được. Vị Tướng Văn Lang thấy thế liền phi ngựa lao vào xáp chiến Hồ Cổn đánh không lại ba người đành bỏ mạng.
Nói về Hồ Mị Hoa, chỉ huy hai vạn quân theo sau yểm trợ, vừa lao vào trận chiến thời không còn nhìn ra phương hướng nữa, mây đen, mây trắng, cuồn cuộn. Bỗng thấy quân binh hỗn loạn, Hồ Mị Hoa thét lớn tất cả đều không được hỗn loạn. Hồ Mị Hoa giật cả mình, khi thấy đạo quân thiết giáp không biết từ đâu kéo ra cắt đôi đạo quân của mình, làm cho đạo quân rối loạn. Hồ Mị Hoa thúc quân quay ngược trở lại chống trả. Không ngờ từ phía sau quân Hồ, quân Văn Lang như cuồng phong vũ bão từ phía sau đánh tới. Trước mặt quân địch, sau lưng quân địch, đánh như mưa trút, quân Hồ tá hỏa, thi nhau ngã gục.
Nói về quân Hồ bị cắt đôi không còn tiếp ứng với nhau được nữa, bị đạo quân thiết giáp đánh bật lui ra khỏi trận địa, còn một nửa trong trận địa hỗn loạn, bị quân Văn Lang chém giết tơi bời. Hồ Mị Hoa không biết đâu là đường ra mây đen, mây trắng cuồn cuộn che chắn hết cả tầm nhìn, chiêng trống dậy trời, quân reo dậy đất chỗ nào cũng có quân Văn Lang. Hồ Mị Hoa giờ đây mới biết ngũ hành trận pháp vô cùng lợi hại, phải phá tan mây đen, mây trắng, mới thấy được phương hướng thoát ra, liền hóa phép. Không ngờ càng hóa phép thời mây đen, mây trắng, cuồn cuộn phủ tới càng nhiều. Hồ Mị Hoa khiếp quá hóa ra trận cuồng phong thúc con Thiên Lý Mã vượt qua đầu quân binh lao ra khỏi trận.
Đây nói về Hồ Man Quân, trong lòng hồi hộp không biết có phá được trận ngũ hành không, lúc nào cũng nghe đao kiếm dậy trời, bỗng thấy một bóng ngựa từ trong trận bay ra, thời nhận ra ngay là Hồ Mị Hoa.
Hồ Man Quân thúc ngựa lao tới hỏi:
Quân ta thế nào?
Hồ Mị Hoa chưa hết kinh hãi nói:
E chết hết trong trận rồi.
Hồ Man Quân nghe Hồ Mị Hoa nói thế, điến cả người không biết Hồ Côn chết sống ra làm sao.
Đây nói về Dương Điền ở trên đài quan sát thấy quân Hồ xông vào trận đông như kiến, nào là bộ binh, nào là xạ binh, nào là kỵ binh, sức mạnh dời non lấp biển, khí thế hừng hực. Dương Điền tức thời ra hiệu lịnh phất cờ trắng, cờ xanh theo thế xáp chiến. La Bôn liền điều khiển đạo quân bộ binh, xạ binh, cùng đội quân kỵ binh lao ra chận đánh quân hồ, dậy trời dậy đất, xáp trận một hồi quân hồ mạnh quá. Quân Văn Lang được lệnh rút lui. Quân Hồ thừa thắng xông lên ào ào rượt đuổi quân Văn Lang như cuồn phong vũ bão. Quân Văn Lang được lệnh tẻ ra làm hai theo thế bao vây ẩn mình trong mây trận. Quân Hồ thấy quân Văn Lang biến mất trong mây trắng, mây đen, vô cùng kinh hãi.
Trên quan sát đài, cờ hiệu lịnh trắng, đen, xanh, đỏ, bốn phương tám hướng tấn công. Tức thời La Đôn, Kinh Hạ, điều khiển bốn đạo quân, chia ra làm hai, thành tám đạo quân đồng loạt tấn công, từ bốn phương tám hướng, tên bắn ra như mưa, quân Hồ rối loạn chạy chỗ nào cũng bị quân Văn Lang như thiên la địa võng phủ đánh.
Trên quan sát đài, Dương Điền thấy quân Ân lớp trước lớp sau xông vào trận càng lúc càng đông như kiến, liền phất cờ vàng hiệu lịnh, theo thế cắt đôi quân địch, chận đứng không cho quân giặc rút lui, chận đứng không cho quân giặc xông vào trận. Tức thời đạo quân chủ lực thiết giáp từ trung ương hành hỏa do tướng Đổ Trung Pha, nhanh chóng bọc hậu cắt đứt quân Hồ trong không cho ra, ngoài không tiến vào được, đội quân thiết giáp chủ lực, là đội quân phá sức mạnh của địch, quân Hồ lùi ra không được, tiến vào không xong bị quân Văn Lang xơi sạch.
Sau có thơ rằng:
Hơn nhau chỉ một nước cờ
Chuyển xây thế trận diệt loài ngoại xâm
Hơn nhau chủ động điều quân
Làm cho quân giặc hết mong sống còn
Ngũ hành khiếp vía quân thù
Xác phơi như núi hãi hùng ngoại xâm.
PHẦN 16: QUYẾT TỬ
Đây nói về Lê Anh, Đoàn Minh, Hoàng Phi, được lịnh trấn giữ hành thủy. Lê Anh trên đài quan sát, thấy quân Ân trùng trùng lớp lớp rồi tách ra làm ba đạo quân, do Sát Sát chỉ huy, sai Tào Côn, làm tướng tiên phong phá trận. Tào Côn phất cờ đạo quân bộ binh ào ào xông vào trận, xáp chiến với quân Văn Lang, rồi có hiệu lịnh lui quân.
Đạo quận xạ tiễn lao vào bắn quân Văn Lang xối xả, quân Văn Lang giã thưa bỏ chạy, quân Ân không đuổi theo mà lui quân ra sau, nhường cho quân kỵ binh lao vào nhanh như gió tấn công quân Văn Lang xối xả, rồi lui ra cứ như thế quân Ân tiến sâu vào trận địa, từng bước từng bước phá tan ngũ hành trận, quân Văn Lang không còn cách nào hơn là xông ra tử chiến, thế là trận đánh xáp lá cà, nhờ mây trận che chắn nên quân Văn Lang ít thiệt hại hơn, trận chiến cứ thế xảy ra cả hàng giờ, bất phân thắng bại.
Nói về Sát Sát thấy quân Ân chưa làm gì được quân Văn Lang, liền điều động năm nghìn quân chủ lực, tiến vào trận. Tức thời gặp phải đạo quân áo giáp xạ tiễn chận đánh, đội quân chủ lực quân Ân đánh trả quyết liệt, hai bên tử nạn, thương vong vô số. Sát Sát vô cùng tức giận làm phép chỉ kiếm, tức thời giông tố nổi lên ầm ầm đánh vào quân Văn Lang, tức thời mây đen, mây trắng cuồn cuộn chống trả. Sát Sát vô cùng kinh hãi, niệm chú hóa phép yêu tinh quỷ dữ hiện ra, tức thời mây trắng, mây đen hóa ra sấm sét yêu tinh quỷ dữ khiếp vía tan biến hết.
Nói về đạo quân tinh nhuệ quân Ân quả nhiên lợi hại đánh bật đạo quân áo giáp. Mây trắng mây đen, bị áp lực thần thông Sát Sát làm cho giảm sút uy lực, vì thế quân Văn Lang cũng giảm sút đi sự biến hóa, quân Ân vì thế mà tấn công dữ dội, lớp nầy ngã xuống lớp khác xông lên, quân Văn Lang ít quân hơn chỉ nhờ vào trận pháp ngũ hành biến hóa theo tiêu diệt kẻ thù.
Sát Sát hết làm phép nầy tới làm phép kia, quyết phá tan mây đen mây trắng, đang trong lúc làm phép thời nổi lên tiếng quát như sấm: Yêu nữ kia nạp mạng đi. Tức thời một đạo quân thiết giáp đội quân tinh nhuệ nhất của đạo quân Văn Lang, từ trung ương ngũ hành, ào ào phi ra tấn công vào đội quân tinh nhuệ thiết kỵ binh quân Ân. Thiết kỵ binh quân Ân ra sức chống trả, nhưng không nổi sắp bị tiêu diệt đến nơi. Sát Sát kinh khiếp thúc quân phá vòng vây đánh bật đạo quân áo giáp lao ra khỏi trận, thấy Tào Côn mình đầy máu bị thương khá nặng, thoát ra khỏi trận trước mình. Sát Sát nhìn lên trời thở dài thế là đi tiêu gần hai vạn quân.
Nói về quân Văn Lang tuy thắng trận nhưng cũng thiệt hại gần hai vạn quân, chỉ còn hơn tám vạn quân, định thừa thắng xông ra tiêu diệt quân Ân, nhưng thấy quân Ân còn đông quá, khó mà đánh cho lại, bằng cố thủ trong trận ngũ hành. Quân Ân cũng không dám tấn công nữa, chỉ bao vây bốn cửa một lúc một thêm chặt.
PHẦN 17: ĐẠI PHÁ QUÂN VĂN LANG
Đây nói về cùng lúc trận chiến cánh Tây quân Ân do Sát Sát chỉ huy, thời cánh Đông Ân Mao Vương, cùng vợ hai là Nghịch Phong sau khi thắng trận giết chết Cao Sơn một tướng kỳ tài của quân Văn Lang, thời lấy làm hả dạ, vì đã trả thù được cho con là Mao Lợi cùng Tây Đô, Tào Hổ, sau đó thời lên kế hoạch đánh phá trận ngũ hành tiêu diệt quân Văn Lang.
Trong lúc đang bàn thời có quân vào báo:
Có Hung Đa Di, Hung Quân Liệt đến.
Ân Mao Vương cho mời vào. Hung Đa Di, Hung Quân Liệt sau khi diện kiến Ân Mao Vương thời kể lại tất cả bị quân Văn Lang đánh bất ngờ, thua đau thua đớn, thiệt hại hơn một nửa số quân.
Ân Mao Vương, Nghịch Phong nghe qua lấy làm kinh hãi nói:
Quân Văn Lang hùng mạnh đến thế sao?
Hung Đa Di nói:
Chúng thần cho người dọ thám thời mới biết quân Văn Lang chỉ có 10 vạn quân mà thôi.
Ân Mao Vương nghe xong lấy làm kinh ngạc:
Chỉ có 10 vạn quân mà đánh tiêu 30 vạn quân, mà toàn là những quân chiến mã thiện chiến, tung hoành trên thảo nguyên, từ phương Bắc đến phương Nam.
Chuyện nầy nếu không phải là hai Tướng quân con của Hung Nô Vương nói thời khó mà tin được. Hung Đa Di, Hung Quân Liệt nói:
Nếu không chủ quan xem thường quân Văn Lang, thời quân Văn Lang sẽ không bao giờ đánh bại một cách dễ dàng như thế được, dù cho đó là lực lượng tương đương với nhau.
Ân Mao Vương nói:
Thua keo nầy gầy lại keo khác, mau về nói với Hung Nô Vương mau đến đây bàn kế tiêu diệt quân Văn Lang.
Hung Đa Di tức tốc lên đường, không bao lâu thời Hung Nô Vương đến, hai bên chào hỏi với nhau. Ân Mao Vương liền vào đề:
Một trận chiến nầy nếu chúng ta thắng, thời không chỉ chúng ta nuốt Bắc Văn Lang, mà Trung Văn Lang, cho đến cả Nam Văn Lang, tha hồ mà hưởng sung sướng, tha hồ mà làm bá chủ, phương Bắc cũng phải khiếp sợ chúng ta.
Hung Nô Vương hỏi:
Kế sách đó bằng cách nào?
Ân Mao Vương nói:
Tấn công phá ngũ hành trận, tiêu diệt đại quân chủ lực Văn Lang, một trận pháp vô cùng lợi hại của nước Văn Lang, nếu phá được thời quân Văn Lang không còn dựa vào đâu để đối địch lại chúng ta. Nếu Hung Nô Chúa Vương chịu đánh phá một cánh Đông ngũ hành, thời Ân Mao Vương ta sẽ hiến kế.
Hung Nô Vương nói:
Cứ đưa ra kế sách, Chúa Vương tôi quyết thực hiện theo.
Ân Mao Vương nói:
Chúa Vương chỉ cần năm vạn quân chịu trách nhiệm tấn công vào cánh Đông hành mộc ngũ hành trận, còn bao nhiêu quân thời phục kích, không được phục kích nơi đồi Mục Linh, vì phục kích nơi đồi Mục Linh, quân Văn Lang phát hiện bao vây đánh hỏa công ngay, vì lúc nầy trời có nắng, lại có gió to. Quân Văn Lang sẽ đi bọc qua đồi Mục Linh trong đêm đến Kinh Đô đánh cướp trại chúng ta. Khi nghe chúng ta dồn hết lực lượng công phá trận ngũ hành, thời chúng bí mật bất ngờ đốt phá doanh trại, phá hủy lương thực chúng ta, làm cho chúng ta hoang mang tinh thần đi đến hồn loạn, tức thời chúng đánh từ sau đánh tới, ở trong đánh ra, chỉ cần tiêu diệt được một cánh quân chúng ta, thời chúng tức tốc kéo quân bao vây từ sau cánh Đông đánh tới, trong đánh ra, sau đánh tới tiêu diệt mất hai cánh quân chỉ còn nước là bỏ chạy mà thôi, chúng thừa thắng hiệp lực với các cánh quân Châu Phủ, truy sát bại binh chúng ta, thời giấc mộng xâm chiếm Văn Lang coi như chấm hết, không khéo nhân cơ hội đó quân binh nhà Chu kéo đến chiếm mất ba nước chúng ta, thế là chúng ta tàn đời.
Hung Nô Vương nghe xong vô cùng kinh hãi. Ân Mao Vương lại nói tiếp:
Để thắng được trận nầy, phải hết sức bí mật, cho năm vạn quân phục kích, theo đường bọc của quân Văn Lang, bọc qua đồi Vạn Linh, đến Kinh Đô, phục kích cách xa đồi Vạn Linh hơn bảy dặm, chờ cho quân Văn Lang qua khỏi đồi Vạn Linh, chúng không còn cảnh giác cao độ. Khi quân Văn Lang sa vào ổ phục kích chúng ta, thời đồng loạt ra lịnh tấn công, quân Văn Lang không phải là quân hỗn tạp tầm thường chúng cố chống trả lui trở lại nhưng không trở lại thành Xích Linh, vì quân Văn Lang sợ chúng ta phục kích chận đường rút lui của chúng mà tiêu diệt, mà chạy về Huyện An Giao chúng ta chờ đợi chúng đến mà tiêu diệt.
Hung Nô Vương nghe xong cho là diệu kế, tức tốc bí mật triển khai lực lượng, quân Văn Lang tuy có đội thám thính giỏi, nhưng cũng không phát hiện được gì, vì quân Hung Nô đánh lừa, thua chạy đóng trại bên kia sông, thật ra đó chỉ là doanh trại giả, mục đích đánh lừa quân thám thính Văn Lang mà thôi, cứ nghĩ quân Hung Nô thua trận cố thủ bên kia sông chưa hành động gì cả, ngày nào cũng quân reo ngựa hí, như đang tập trận.
Đây nói về Ân Mao Vương lập đàn cầu sư phụ. Nói về Hồ Nhất Tinh, Hồ Nhị Yêu, Hồ Tam Quỉ đang ngồi tu thiền luyện khí, bỗng nghe hương trầm thoảng qua lấy làm lạ liền bấm tay độn quẻ, thời biết Ân Mao Vương đang cầu liền tức tốc đằng vân bay đến. Nghịch Phong xem thường trận ngũ hành nên không cầu sự phụ giáng lâm.
Lại nói về Nguyên Minh cùng các Tướng Lĩnh vô cùng thương tiết Cao Sơn vị Tướng tài ba của quân Văn Lang, và cũng vô cùng kinh hãi thần thông pháp thuật của tướng nữ giặc Ân, quân Ân đã nhiều lần đến khiêu chiến, nhưng quân Văn Lang chỉ cố thủ trong doanh trại ngũ hành, ngày đêm tập luyện củng cố trận pháp, từ nơi trận pháp ngũ hành xuất hiện mây đen, mây trắng, càng nhiều, lại có những tia hào quang phát lên từ trung tâm ngũ hành, cũng như bốn trung tâm, Kim – Mộc – Thủy – Hỏa.
Nguyên Minh, Nguyên Dực là hai anh em sanh đôi, cháu nhiều đời của quan Lạc Tướng Nguyên Đô, ở Bộ Ninh Hải, Châu Đông Hải, Huyện Đông Châu, khi còn nhỏ hai anh em đang chơi, bỗng một trận gió cuốn đi đâu mất, sau 10 năm trở lại, từ đó nổi tiếng là có tài hay phép lạ, võ nghệ cao cường. Nguyên Dực và Nguyên Minh được một Đạo Tiên râu tóc bạc phơ đưa ra biển đảo dạy cho võ nghệ cùng trận ngũ hành.
Khi Nguyên Dực, Nguyên Minh học thành tài, thời vị Đạo Tiên ấy nói:
Ta là Cao Tổ thời dựng nước, vì có nhân duyên với hai con nên ta xuống trần, truyền dạy võ nghệ cùng trận ngũ hành sau nầy đánh giặc Ân cứu nước.
Nói xong Cao Tổ đưa cho Nguyên Dực, Nguyên Minh, mỗi người một lá cờ Thần, gọi là cờ trận, truyền dạy những pháp chú, xong đâu vào đấy, vị Đạo Tiên nói:
Hai con hãy nhắm mắt lại để ta đưa hai con trở lại quê nhà.
Nguyên Dực, Nguyên Minh, nghe theo lời dạy nhắm mắt lại chỉ nghe gió thổi ù ù bên tai, chừng không còn nghe gió thổi nữa, liền mở mắt ra thời ở trước sân nhà rồi. Cả nhà thấy Nguyên Minh, Nguyên Dực trở về, vui mừng khôn xiết, nhất là mẹ của Nguyên Dực, Nguyên Minh, nhìn thấy con khôn lớn, bà không cầm được giọt nước mắt, vì thương nhớ con bà già đi trước tuổi, sự đoàn tụ ấy không bao lâu thời mẹ mất, từ đó Nguyên Dực, Nguyên Minh văn ôn võ luyện chờ ngày lên đường giúp nước.
Nguyên Minh ngồi trầm tư nhìn lá cờ thần mà nhớ lại chuyện xưa, tất cả đều hiện ra trước mắt như mới hôm qua, Nguyên Minh nghĩ: Non sông Tổ Quốc, và biển đảo, nó Thiêng Liêng làm sao.
Nguyên Minh đang trầm tư hồi tưởng chuyện xưa, thời có quân vào báo:
Bẩm Chủ Soái, quân Ân đã triển khai lực lượng đánh chúng ta.
Nguyên Minh tức thời triệu tập các quan Tướng, lên đài quan sát xem tình hình quân giặc, thấy liên hoàn doanh trại giặc Ân đang huy động toàn lực lượng chuẩn bị công phá doanh trại ngũ hành quân Văn Lang.
Đa Kế nói:
Bẩm Chủ Soái, hãy viết ngay mật thư gởi cho Cao Hải Đô Thống Tướng Quân, đang ở thành Xích Linh, sau khi triệt phá quân Hung Nô, với kế sách đánh bọc hậu đốt phá doanh trại, cũng như lương thực của giặc Ân. Khi quân Ân đã dốc toàn lực lượng tấn công chúng ta.
Và đúng như vậy chỉ mấy ngày sau thời quân Ân triển khai lực lượng bao vây doanh trại quân Văn Lang từ bốn hướng.
Nói về Ân Mao Vương lập đài cầu ba sư phụ, không bao lâu thời Hồ Nhất Tinh, Hồ Nhị Yêu, Hồ Tam Quỉ, đến. Ân Mao Vương, Nghịch Phong tiếp đón lạy tạ, xong đâu vào đấy.
Ân Mao Vương mời ba sư phụ ngồi ghế cao, rồi thưa rằng:
Con cầu ba sư phụ đến đây giúp con phá trận ngũ hành, chỉ cần phá tan trận ngũ hành nầy thời con nhất định chiếm lấy được nước Văn Lang.
Hồ Nhất Tinh nói:
Trận ngũ hành phương Nam không giống như trận ngũ hành phương Bắc. Trận ngũ hành phương Nam vô cùng lợi hại, nhất là lá cờ trận ngũ hành. Ta có đi ngang qua cánh Tây, thấy Sát Sát thất bại khi phá trận ngũ hành, và đang huy động toàn lực lượng, hợp lực cùng quân Hồ, quyết phá trận cho bằng được. Sát Sát đang lập đàn cầu sư phụ đến giúp đỡ.
Hồ Nhị Yêu nói:
Trận ngũ hành ở phương Nam, không những lợi hại ở lá cờ trận, mà còn lợi hại biến hóa binh pháp ở người điều khiển trận địa.
Hồ Tam Quỉ nói:
Như vậy muốn phá trận ngũ hành, thời phải theo hai phương án: Phương án thứ nhất là phá tan pháp trận Uy Linh của cờ trận. Phương án thứ hai là phá tan binh trận, có như vậy mới thành công được.
Hồ Nhất Tinh nói:
Ta chịu trách nhiệm đánh phá Trung Ương. Hành thổ đài chính nơi có lá cờ trận, cắm trên cao tần năm của đài quan sát, nơi cờ trận phát ra uy lực vô cùng tạo ra mây đen, mây trắng.
Hồ Nhị Yêu nói:
Ta chịu trách nhiệm đánh vào cờ trận trung tâm hành kim, phá tan sức mạnh của kim lệnh, tạo ra ảo giác, của hành trận.
Hồ Tam Quỉ nói:
Ta chịu trách nhiệm đánh vào cờ trận trung tâm hành mộc, phá tan sức mạnh ảo giác của trận khí.
Hồ Nhất Tinh nói:
Ân Mao Vương, chịu trách nhiệm đánh vào cờ trận trung tâm hành hỏa, phá tan sức mạnh ảo giác của trận khí.
Hồ Nhất Tinh nói xong liền thổi lên khúc tiêu kỳ lạ, tức thời có một con chồn to lớn có cánh bay đến. Hồ Nhất Tinh nói:
Con cỡi con Hồ Tiên nầy bay vào trung tâm hành hỏa phá trận.
Hồ Nhất Tinh nói:
Nghịch Phong, chịu trách nhiệm, cỡi con Thần Mã bay lên không đánh vào cờ trận, trung tâm hành thủy, phá tan sức mạnh ảo giác của trận khí. Cờ trận đã có người phá, còn binh trận phải chọn Tướng tài giỏi điều binh khiển tướng công phá.
Ân Mao Vương, phân bổ lực lượng tấn công phá trận ngũ hành như sau:
Hồ Ma nghe lịnh, có thuộc hạ. Lão Tướng quân thống lĩnh năm vạn quân, đánh vào cửa Tây kim trận, tuân lịnh.
Chiên La nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng nữ thống lĩnh năm vạn quân, đánh vào cửa Bắc thủy trận.
Hổ Tinh nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân thống lĩnh năm vạn quân, đánh vào cửa Nam hỏa trận, tuân lịnh.
Beo Tinh nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân thống lĩnh năm vạn quân, bảo vệ liên hoàn doanh trại, nhất là bảo vệ lương thực, đề phòng bất ngờ xảy ra, tuân lịnh, không bổ lực lượng đâu vào đấy.
Ân Mao Vương nói:
Chờ quân Hung Nô đến là triển khai quân tấn công.
Không bao lâu thời có người vào báo:
Quân Hung Nô đã đến.
Thế là quân Ân, triển khai lực lượng phá trận, bốn đạo quân như bốn con mãng xà, từ trong doanh trại bò ra lượn mình lao tới doanh trại quân Văn Lang, ai nhìn thấy cũng phải kinh hồn bạt vía.
Đây nói về Nguyên Minh cùng các Tướng trên đài quan sát nhìn thấy quân Ân như bốn con mãng xà từ liên hoàn doanh trại lao ra, cuồn cuộn bò tới bao vây doanh trại ngũ hành, quân binh đông như kiến. Nguyên Minh nhìn lên trời khấn rằng: Đây là trận sanh tử sống còn của nước Văn Lang.
Trả nợ nước non lúc nầy đây
Dù có hy sinh cũng vui vầy
Hiếu trung một dạ lòng quyết tử
Xả thân vì nước sướng vui thay
Dòng máu anh hùng nòi Hồng Lạc
Trải gan phơi mật chí tung bay
Đền ơn xã tắc, dù ngã gục
Tử chiến quân thù, chí hăng say.
Nguyên Minh nói cùng các Tướng Lĩnh:
Quân xâm lược tự nó dẫn xác đến, chúng nó sẽ bỏ mạng tại nơi đây, đền tội với đồng bào dân tộc ta. Chúng kéo đến nhiều chừng nào tốt chừng nấy, đây là cơ hội cho chúng ta quét sạch chúng. Các Tướng quân nghe lệnh, tất cả hãy vào vị trí chiến đấu, một còn một mất với quân thù.
Nói về cánh Tây trận ngũ hành. Cự Lân, tổng chỉ huy, ở trên quan sát đài, điều hành cờ trận, cùng ba phó Tướng chỉ huy ở dưới đất là Xuân Thành, Kim Trọng, điều khiển bốn đạo quân, Kim – Mộc – Thủy – Hỏa. Khơ Linh điều khiển đạo quân hành thổ Trung Ương. Cánh Đông ngũ hành. Huyền Trung, tổng chỉ huy, ở trên đài quan sát điều hành cờ trận, cùng ba phó Tướng chỉ huy ở dưới đất là Hoàng Châu, Trịnh Chu, điều khiển bốn đạo quân, Kim – Mộc – Thủy – Hỏa. Ngô Dụng, điều khiển đạo quân Trung Ương hành thổ. Cánh Nam ngũ hành. Trần Bá, tổng chỉ huy ở trên đài quan sát điều hành cờ trận, cùng ba phó Tướng là Tôn Nghị, Dương Phàm, điều khiển bốn đạo quân, Kim – Mộc – Thủy – Hỏa. Khơ Lan, điều khiển đạo quân Trung Ương hành thổ. Cánh Bắc ngũ hành. Phan Lợi, tổng chỉ huy ở trên đài quan sát, điều hành cờ trận, cùng ba phó Tướng ở dưới đất là Đổ Can, Ngô Đại, điều khiển bốn đạo quân, Kim – Mộc – Thủy – Hỏa. Quốc Trung, điều khiển đạo quân Trung Ương hành thổ.
Cùng lúc ấy. Nguyên Minh phất cờ trận Trung Ương niệm chú, tức thời mây đen, mây trắng, cuồn cuộn hiện ra che phủ ngũ hành trận, Nguyên Minh lại phất cờ trận niệm chú tức thời Kim Thần, Mộc Thần, Thủy Thần, Hỏa Thần, Thổ Thần, xuất hiện trấn giữ các cờ trận Trung Ương ngũ hành. Tức thời ngũ hành trận uy lực vô biên, sát khí ngùn ngụt.
Nói về Hồ Ma thống lĩnh năm vạn quân Ân, rầm rầm rộ rộ như con mãn xà lượn mình về hướng Tây lao nhanh tới cánh Tây trận ngũ hành bao vây trùng trùng điệp điệp. Hồ Ma chia ra làm ba đạo quân, bộ binh, xạ binh, kỵ binh, đồng loạt tấn công, quân reo dậy đất ngựa hí vang trời. Tràng vào ngũ hành kim trận, bỗng thấy trên đài quan sát cờ trận phất theo thế quân binh ẩn sâu trong trận pháp, khí trận tỏa ra sương mù. Quân Ân tiến vào như tiến vào chỗ không người, bộ binh do tướng Mục Yêu, chỉ huy bộ binh quân Ân tiến vào như chỗ không người, thấy nơi đâu cũng toàn là sương mù, thời vô cùng kinh hãi. Cùng lúc ấy đạo quân xạ binh quân Ân cũng rơi vào tình cảnh như thế, tướng Phi La kinh hải. Đạo quân kỵ binh do tướng Hồ Phỉ chỉ huy cũng không khá gì hơn, không thấy chi cả, chỉ toàn là sương mù, trong lúc còn đang hoang mang. Thời mây đen, mây trắng, cuồn cuộn kéo tới, che chắn hết tầm nhìn quân binh khó mà nhìn thấy được nhau. Quân Ân đang hoang mang thời nghe chiêng trống dậy trời quân reo dậy đất tên bắn ra như mưa, lao giáo phóng ra như mưa trút, quân Ân rối loạn binh mã, rối loạn đội hình tấn công lẫn nhau chết thôi là chết. Mây đen, mây trắng, sương mù phủ kín, quân Ân không biết đâu là đâu đạp càn lên nhau vì không nhận rõ đâu là kẻ thù, đâu là ta. Mục Yêu kinh hãi lao tới gào thét bình tỉnh không được giết lầm quân ta. Mục Yêu nghe tiếng quát như sấm, từ trong đám mây lao ra một dũng Tướng múa trường thương đâm Mục Yêu nhanh như tia chớp, Mục Yêu múa giáo chống trả, hai hổ đánh nhau dậy trời, người vừa lao ra đánh Mục Yêu không ai khác hơn chính là Xuân Thành.
Xuân Thành võ nghệ cao cường, trường thương như mưa sa bão táp, Mục Yêu chống trả muốn hụt hơi. Trong khi ấy quân Văn Lang như ma quỷ ẩn hiện khắp nơi tấn công tới tấp, quân Ân càng lúc càng rối loạn, quân Văn Lang xông lên chém quân Ân như chém chuối.
Sau có thơ rằng:
Kinh thay chiến trận ầm ầm
Tên bay dậy đất, giáo rền dậy non
Gươm, đao, chơm chớp loáng loang
Ầm ầm trận địa kinh thiên rợn người
Ào ào người ngựa ào ào
Đùng đùng dồn dập ôi nào khiếp kinh
Đầu người rụng xuống như sung
Thây người chồng chất núi non kể gì
Một bên con cháu Tiên Rồng
Một bên xâm lược bạo tàn ác ôn
Ôi thôi đao kiếm rền vang
Chờ xem trận chiến thắng thua phen nầy.
Cùng lúc ấy Phi La đang ra sức dồn quân chống trả lại quân Văn Lang, từ mây trận bắn xối xả ra, bất thình lình đội quân áo giáp Văn Lang từ phía sau đạo quân xạ tiễn quân Ân, đánh bọc tới, đạo quân xạ tiễn quân Ân vô cùng rối loạn, tuôn vào mây trận, bị quân Văn Lang xơi sạch, tình thế vô cùng nguy cấp, nếu quân Ân không có giải pháp chống trả hữu hiệu.
Cùng lúc ấy, đạo quân kỵ binh Ân, đang ra sức chống trả lại, đạo quân ma quỷ lúc ẩn lúc hiện quân Văn Lang. Tướng Hồ Phỉ giặc Ân ra sức thúc kỵ binh chống trả, Hồ Phỉ đang hò hét muốn hụt hơi. Bỗng thấy một đạo quân thiết giáp kỵ binh từ mây trận lao ra chém kỵ binh quân Ân như chém chuối. Hồ Phỉ kinh hãi lao vào xáp chiến, thời nghe một tiếng quát trong trẻo Khơ Linh thúc ngựa xông vào song kiếm chém tới như mưa. Hồ Phỉ múa giáo chống trả, Khơ Linh võ nghệ cao cường, thế võ kỳ bí, song kiếm biến hóa, Hồ Phỉ chống đỡ muốn hụt hơi, quày ngựa bỏ chạy.
Về sau có thơ rằng:
Phương Nam nữ Tướng anh hùng
Đường gươm chơm chớp lẫy lừng biết bao
Đánh cho Tướng giặc lao đao
Kinh hồn bạt vía tả tơi kinh hồn.
Cùng lúc ấy cánh Đông trận ngũ hành, Hung Nô Vương dồn quân xông vào trận như nước lở. Trên đài quan sát. Huyền Trung, thấy quân Hung Nô tràng vô hành trận như nước lở, liền phất cờ hiệu, dụ địch. Tức thời Hoàng Châu, điều khiển đạo quân kỵ binh ào ào xông ra chận đánh. Quân Hung Nô mạnh như vũ bão, không thế lực nào ngăn trở nổi, quân Văn Lang đánh không lại thi nhau bỏ chạy, quân Hung Nô rượt theo truy sát, một hồi lâu. Quân Văn Lang lao vào sương mù rồi biến đi đâu mất.
Đạo quân thứ hai do Trịnh Chu chỉ huy từ trong sương mù xuất hiện, tấn công quân Hung Nô. Quân Hung Nô ỷ đông lại hừng hực khí thế áp đảo quân Văn Lang, xông tới đánh quân Văn Lang như sấm sét, quân Văn Lang chống trả không nổi thi nhau bỏ chạy. Quân Hung nô thừa thắng xông lên rượt đuổi truy sát quân Văn Lang, bỗng trên không nổ lốp bốp sương mù phủ tới không còn thấy chi cả. Hung Nô Vương, trực tiếp chỉ huy ba đạo quân tiến vào một lúc, với sức mạnh dời non lấp bể, quân Văn Lang không ngăn cản nổi. Hung Nô Vương là tay vô cùng hung bạo lại ỷ có pháp thuật, cùng kỵ bịnh tiến vào phá trận, rượt đuổi truy sát quân Văn Lang. Hung Nô Vương cùng ba đạo quân, kỵ binh, bộ binh, xạ binh, tiến nhanh sâu vào trận thời không thấy quân Văn Lang đâu cả, chỉ toàn là sương mù. Hung Nô Vương lấy làm kinh hãi định lui quân trở ra. Thời mây trận cuồn cuộn phủ tới, che chắn hết tầm nhìn người trước mặt nhìn không rõ, Hung Nô Vương càng thêm kinh hãi, niệm chú hóa phép đánh vào mây trận, thời mây trận càng mạnh thêm, khí lực dồn tới một cách kỳ lạ. Hung Nô Vương ra lệnh: Rút lui, rút lui. Nhưng đâu còn kịp nữa, quân Văn Lang từ bốn phương tám hướng ẩn theo mây trận đánh tới, chiêng trống dậy trời, quân reo dậy đất, tên, lao, bắn, phóng ra như mưa bão. Quân Hung Nô tài phóng lao, bắn tên, cỡi ngựa, thời không ai bằng, nhưng không nhìn thấy địch thủ đâu cả, chỉ bắn phóng bừa vào mây trận, hiệu quả không cao. Quân Văn Lang nhờ vào mây trận chiếm ưu thế, quân Hung Nô bị động không làm chủ được trận địa. Càng đánh quân Hung Nô càng thiệt hại lớn, Hung Nô Vương lúc nầy không còn phân biệt đâu là Đông Tây Nam Bắc, Hung Nô Vương hò hét tìm đường trở ra nhưng không tìm thấy đường ra đâu nữa. Trước mặt là đạo quân thiết giáp quân Văn Lang chiến đấu dữ dội. Hung Nô Vương chỉ còn con đường, tìm con đường sống trong con đường chết mà thôi.
Nói về Ngô Dụng thấy trên đài quan sát, phất cờ trận Trung Ương theo thế chận đứng đường rút lui quân địch, tức thời điều khiển một vạn quân, trong đó có đạo quân thiết giáp, chận đứng đường ra, không cho quân Hung Nô rút lui.
Về sau có thơ rằng:
Hung Nô kinh hãi rụng rời
Lạc vào mây trận cuộc đời còn chi
Ngựa người dẫm đạp lên nhau
Đầu rơi máu đổ ôi thôi kinh hoàng
Chiêng rền trống dội vang trời
Gươm đao, giáo mác ầm ầm bủa vây
Hung Nô chờ chết tan thây
Còn xem tạo hóa mắn may thế nào.
PHẦN 18: TỬ CHIẾN
Cùng lúc ấy nơi cánh Nam hành hỏa ngũ hành, Trần Bá ở trên đài quan sát, thấy quân Ân trùng trùng lớp lớp, chia ra làm ba đạo quân, do Tướng Hổ Tinh tổng chỉ huy. Hổ Tinh phất cờ bộ binh, chỉ kiếm, tức thời đạo quân bộ bịnh do Sa Lị cầm đầu ào ào xông vào trận.
Nói về Tôn Nghị Tướng Văn Lang nhìn thấy trên đài quan sát thấy cờ phất chận đứng đánh quân địch tại cửa trận, tức thời điều động bộ binh xáp chiến, gươm đao giáo mác đinh tai nhức óc.
Về sau có thơ rằng:
Chiến trận vang rền giáo, đao, gươm
Quân Ân cuồn cuộn tiến xông lên
Văn Lang binh lính đầy dũng khí
Thét gào lao tới quyết tử sinh
Con đường trung hiếu luôn phía trước
Tiêu diệt quân thù lũ ngoại xâm
Một mất một còn vì non nước
Hào khí Anh Linh chí Cha Ông.
Hổ Tinh thấy sức chiến đấu quân Văn Lang như vũ bão, tức thời phất cờ đạo quân xạ tiễn xông lên, bắn vào đạo quân Văn Lang như mưa, quân Văn Lang chống cự không lại bỏ chạy, quân Ân thắng thế ào ào rượt đuổi, bỗng nghe chiêng trống nổi lên ầm ầm, đội quân áo giáp Văn Lang xuất hiện, chận đánh đạo quân xạ binh quân Ân, sức mạnh như dời sông lấp biển. Đạo quân xạ binh quân Ân ........ không nổi.
Hổ Tinh thấy thế hét lên một tiếng, điều động kỵ binh xung trận, khí thế như cuồng phong vũ bão, đội quân áo giáp đánh không lại. Dương Phàm ra lệnh rút lui. Ba đạo quân Ân thừa thắng xông lên, rượt đuổi quân Văn Lang, bất thình lình sương mù xuất hiện. Quân Ân không còn thấy quân Văn Lang đâu nữa, hoang mang kinh hãi. Quân Văn Lang tức thời phản công như sấm sét.
Về sau có thơ rằng:
Văn Lang nào phải nuốt dễ xơi
Gặp phải Tiên Rồng chết như chơi
Giặc Ân một lũ điên cuồng ngớ
Bỏ mạng sa trường xác thây phơi.
Nói về Tướng chỉ huy xạ binh quân Ân là Hạ Phu kinh khiếp trước trận pháp ngũ hành, thấy mây trắng, mây đen che phủ bảo bọc quân Văn Lang, vì thế quân Văn Lang không khác gì đạo quân ma quỷ, không thấy đầu, không thấy đuôi, quân Văn Lang thời thấy rõ quân Ân, quân Ân vô cùng bất lợi, càng đánh càng thất bại. Hạ Phu thúc quân xông vào mây trận. Hạ Phu xông lên hò hét, không ngờ quân Văn Lang vô cùng lợi hại, hạ gục quân Ân như hạ gục đàn chó dại. Hạ Phu phi ngựa bỏ chạy. Bỗng một tiếng quát nổi lên như sấm: Chạy đâu cho thoát. Tức thời tướng Văn Lang xuất hiện, thanh đại đao trên tay chém tới nhanh như tia chớp. Hạ Phu múa giáo chống trả, choang đinh tai nhức óc, Hạ Phu kinh hoảng: Đao pháp gì mà mạnh thế? Định phóng ngựa tẩu thoát, nhưng không còn kịp nữa một tia chớp nổi lên thế Hạ Phu trúng một đao chết tốt, người giết chết hạ phu chính là Tôn Nghị.
Nói về Sa Lị đang bị bao vây trong làn tên mũi giáo, ra sức chống trả. Dương Phàm dương cung bắn một phát trúng ngay vào cổ, Sa Lị té nhào xuống ngựa chết tốt. Quân Ân như rắn mất đầu hỗn loạn vô cùng, Hổ Tinh kinh hãi thúc quân phá vòng vây tìm lối ra, nhưng bị đạo quân thiết giáp đánh bật trở vào, người chỉ huy đạo quân thiết giáp Văn Lang chính là Khơ Lan. Khơ Lan tả xông hữu đột, điều khiển quân binh, đội quân thiết giáp vô cùng linh hoạt, quân Ân lớp lớp bị hạ gục.
Nói về cánh Bắc hành thủy, quân Ân cũng đang sa vào thảm cảnh sắp bị hủy diệt. Chiên La đang bị bao vây trong làn tên mũi giáo, sắp mất mạng đến nơi, nói chung quân Ân thua to nếu không phá được cờ trận.
Đây nói về Hồ Nhất Tinh, Hồ Nhị Yêu, Hồ Tam Quỉ, Ân Mao Vương, Nghịch Phong. Đồng loạt bay lên không xem xét trận ngũ hành, thấy mây đen, mây trắng, cuồn cuộn che phủ trận ngũ hành không thấy gì cả, khí lực ngũ hành tuôn lên cuồn cuộn, sát khí ngùn ngụt, đã hơn một giờ mà chưa có cách phá trận. Ân Mao Vương lấy làm lo, vì quân Ân đã xông vào trận địa, chiến trận nổ ra rền trời rền đất, không còn chần chờ được nữa, Ân Mao Vương cỡi con Hồ Tiên bay xuống đánh phá cờ trận trung tâm hành hỏa.
Ân Mao Vương vừa lao vào mây trắng, tức thời một đạo kim quang từ cờ đỏ trung tâm hành hỏa tỏa lên tấn công. Hồ Tiên liền thổi hắc quang chống trả, Ân Mao Vương rút bảo kiếm từ trên không chém xuống, bỗng thấy một vị thần xuất hiện, bay lên chống trả, chính là Hỏa Thần, hai bên đánh với nhau vô cùng ác liệt. Ân Mao Vương, nhờ học được ba thầy nên pháp thuật vô biên. Hỏa Thần yếu thế hơn nhưng nhờ thần lực cờ trận, nên Mao Ân Vương khó mà giành lấy phần thắng. Ân Mao Vương quyết hạ gục Hỏa Thần kiếm báu trên tay vung lên chém xuống lia lịa, kiếm khí tuôn ra chém tới ầm ầm. Hỏa Thần vung gậy phép lên chống trả, gậy qua kiếm lại ầm ầm đùng đùng dậy trời dậy đất, đánh nhau cả trăm hiệp bất phân thắng bại.
Cùng lúc ấy Nghịch Phong cỡi con Huyết Hãn thần mã bay vào mây trận, vung kiếm chém xuống lá cờ đen trung tâm hành thủy, tức thời một đạo hào quang từ lá cờ đen tỏa lên chống trả ầm ầm long trời lở đất. Nghịch Phong niệm chú hóa phép chỉ tay một cái, tức thời một đạo khí phong bay tới lá cờ đen. Bỗng một vị thần xuất hiện đó là Thủy Thần, múa gậy chống đỡ.
Nghịch Phong nổi giận quát:
Ngươi là ai mà dám đối địch với ta?
Thủy Thần quát:
Nhái ranh hỗn láo, xem gậy lão Thần đây.
Tức thời chỉ gậy vào Nghịch Phong hô biến, tức thời cây gậy liền hóa ra một đạo kim quang đánh tới. Nghịch Phong chỉ kiếm niệm chú hóa ra một đạo kim quang chống trả, hai bên đấu phép với nhau liên miên bất tận. Nghịch Phong quyết hạ cho bằng được đối thủ, phi ngựa lao tới chém vào Thủy Thần. Thủy Thần múa gậy chống trả, đánh với nhau cả trăm hiệp bất phân thắng bại.
Lại nói về Hồ Nhị Yêu bay thẳng vào trung tâm kim trận, đánh một chưởng xuống lá cờ trắng, tức thời lá cờ trắng tỏa lên một đạo hào quang chống trả. Hồ Nhị Yêu nhanh như chớp đánh liền ba chưởng xuống lá cờ trắng, bất thình lình một vị Thần xuất hiện phất ba đạo kình phong chống trả, đùng ầm ầm long trời lở đất.
Hồ Nhị Yêu quát:
Kim Thần muốn sống thời biến ngay đi.
Kim Thần quát:
Không lo tu luyện còn giúp cho đồ đệ xâm lược quả là ngươi đã tới số.
Hồ Nhị Yêu tức quá múa phất Trần đánh tới tấp vào Kim Thần, Kim Thần nào chịu kém, múa gậy Thần đánh tới tấp vào Hồ Nhị Yêu, hai bên đánh nhau rền trời rền đất. Gậy qua, Trầm lại hơn trăm hiệp bất phân thắng bại, ai nhìn thấy cũng phải kinh hồn bạt vía.
Cùng lúc ấy nói về Hồ Tam Quỉ, đánh với Mộc Thần. Cả trăm hiệp bất phân thắng bại, Mộc Thần múa gậy kình phong tuôn ra ầm ầm, Hồ Tam Quỉ múa đôi bàn tay sắt vuốt nhọn chống trả. Hồ Tam Quỉ nhanh như chớp chụp xuống lá cờ xanh bỗng một đạo hào quang tỏa lên, Tam quỉ trúng tia hào quang đau buốt lấy làm kinh hãi. Không còn dám coi thường lá cờ trận, Tam Quỉ bị Mộc Thần tấn công, rất khó phá được cờ trận, hai bên đánh nhau chưởng phong ầm ầm, chỉ phong véo véo, bất phân thắng bại.
Lại nói về Hồ Nhất Tinh, bay vào trung tâm ngũ hành trận, lao nhanh xuống lá cờ vàng, đang phát ra uy lực vô biên, đánh xuống một đạo hắc quang, tức thời lá cờ vàng tỏa lên một đạo hào quang chống trả, ầm ầm long trời lở đất. Hồ Nhất Tinh múa phất trần đánh xuống lá cờ trận, lá cờ trận tỏa hào quang chống trả, Hồ Nhất Tinh không làm gì được. Hồ Nhất Tinh bằng ném một vật lên hư không niệm chú, tức thời vật đó liền hóa ra một thanh xà kiếm, tỏa hào quang từ trên không lao xuống hầu phá hủy lá cờ trận. Bỗng Thổ Thần xuất hiện, ném gậy Thần chống đỡ, choang một tiếng đinh tai nhức óc. Hồ Nhất Tinh thâu phép lại, bay xuống đánh với Thổ Thần, bất thình lình lao tới chụp lấy lá cờ. Thời nghe một tiếng quát long trời lở đất, trường đao vung lên như tia chớp chém tới Hồ Nhất Tinh. Hồ Nhất Tinh múa phất trần chống trả ầm ầm, kinh thiên động địa.
Hồ Nhất Tinh quát:
Nguyên Minh ngày tận số của ngươi tới rồi.
Thổ Thần quát:
Loài yêu tinh hỗn láo.
Thổ Thần múa gậy đánh tới như vũ bão, Nguyên Minh vì không biết bay chỉ biết đứng nhìn Thổ Thần cùng Nhất Tinh hỗn chiến.
Trên không trận chiến ầm ầm
Dưới đất binh hùng xáp chiến kinh thiên
Ầm ầm đất chuyển trời rung
Đùng đùng gươm giáo khiếp kinh ầm ầm
Mặt trời sắp lặn non Tây
Quân reo ngựa hí bủa vây không ngừng
Kìa gươm giáo vang trời không dứt
Chiêng, trống rền hò hét liên miên
Đất trời như muốn ngã nghiêng
Cát bay đá chạy khiếp kinh mịt mù.
Hồ Nhất Tinh, đang đánh với Thổ Thần, bỗng rùng mình hóa phép, yêu tinh xuất hiện đầy trời, lao vào đánh với Thổ Thần, xáp chiến với Nguyên Minh. Nguyên Minh múa đao kinh phong tuôn ra ầm ầm chống trả với bầy yêu tinh. Bỗng nghe ầm ầm long trời lở đất, lá cờ trận đã bị Hồ Nhất Tinh chém rách, tức thời sương mù, mây đen, mây trắng biến mất, ngũ thần cũng biến theo. Nguyên Minh vô cùng kinh hãi, lúc nầy chỉ còn ngũ hành trận không còn cờ trận.
Nói về Ân Mao Vương nhìn xuống ngũ hành trận thấy quân Ân chết lớp lớp chồng chất lên nhau, thời thét lên lao xuống múa đao chém Trần Bá không cho Trần Bá điều khiển quân kỳ nữa, Trần Bá múa đao chống trả, hai bên đánh nhau vô cùng dữ dội. Còn Hồ Tiên liền thổi ra một luồng khí độc Trần Bá xây xẩm mặt mày, Ân Mao Vương lao tới chém một đao bỏ mạng.
Về sau có thơ rằng:
Ôi cái chết đi vào bất tử
Vì non sông Tổ Quốc hy sinh
Ôi cái chết tràn đầy uy dũng
Xác mất rồi nhưng hồn mãi Uy Linh.
Nói về Nghịch Phong đang đánh với Thủy Thần thời nghe tiếng nổ ầm ầm, sương mù, mây đen, mây trắng, biến mất, Thủy Thần cũng tan biến tự bao giờ. Nhìn xuống ngũ hành trận, thấy quân Ân chết lớp lớp chồng chất lên nhau thời vô cùng kinh hãi, tuy mây trận biến mất nhưng ngũ hành trận vẫn còn, nơi Trung Ương Hành Thủy Phan Lợi, phất cờ điều khiển quân binh đánh quân Ân tới tấp. Nghịch Phong phi ngựa tới chém Phan Lợi, Phan Lợi múa đao chống trả, hai bên đánh nhau ầm ầm, đường đao Phan Lợi vô cùng lợi hại, Nghịch Phong khó mà làm gì được, bằng hóa phép cuồng phong nổi lên lên ầm ầm, yêu tinh ma quỷ hiện ra xông tới đánh Phan Lợi. Phan Lợi múa đao chống trả quyết liệt, hào khí ngùn ngụt yêu tinh không làm gì nổi Phan Lợi. Nghịch Phong bằng lấy một thanh kiếm nhỏ trong túi ra ném lên không niệm chú, tức thời một tia chớp lao xuống Phan Lợi không tránh kịp đành bỏ mạng, Nghịch Phong phi ngựa xuống đất đánh quân Văn Lang cứu quân Ân. Phan Lợi tuy chết nhưng hồn vẫn Hiển Linh hóa ra sương mù che chở quân Văn Lang.
Về sau có thơ rằng:
Thân ngã xuống nhưng hồn nào có chết
Vẫn anh linh trong kiếp sống linh thiên
Hóa mây mù luôn che chở quân binh
Xác tuy mất nhưng linh hồn bất tử
Chết là hết, nhưng nào đâu có phải
Vân Anh Linh trong cuộc sống hiển linh
Kìa mây mù luôn che chở quân binh.
Lại nói về Hồ Nhị Yêu, không hạ gục được Kim Thần, vô cùng tức giận những không làm gì được, bỗng nghe tiếng nổ ầm ầm, cờ trận cùng Kim Thần biến mất. Hồ Nhị Yêu thấy Cự Lân phất cờ chỉ huy, liền lao xuống đánh một chưởng, bỗng thấy một người hiện ra đẩy Cự Lân bay sang một bên, ầm một tiếng muốn sụp cả quan sát đài, Cự Lân nhìn rõ người cứu mình chính là Trần Bá. Lúc nầy trời đã sẩm tối, Cự Lân phi thân xuống đất lẩn vào quân binh Văn Lang, Hồ Nhị Yêu không nhìn thấy Cự Lân đâu nữa bằng hóa phép đánh xuống quân Văn Lang. Bỗng thấy một con Rồng hiện ra, Hồ Nhị Yêu kinh hoảng tàn hình trốn mất.
Cùng lúc ấy Hồ Tam Quỹ định ra tay giết chết Huyền Trung, bỗng thấy con Kỳ Lân xuất hiện, Hồ Tam Quỉ kinh hoảng trốn mất.
Nói về Nguyên Minh nhìn thấy cờ trận rách nát thời kinh hồn bạt vía, mây trận không còn biết khó mà chống đỡ nổi quân Ân. Hồ Nhất Tinh, thâu phép bay tới thổi ra một luồng yêu khí định giết chết Nguyên Minh, bỗng thấy một con Rồng hiện ra thổi một luồng hồng quang. Hồ Nhất Tinh kinh hoảng trốn mất.
Nguyên Minh thoát chết chưa biết phải làm sao thời có người lên tiếng nói:
Chủ soái mau trốn đi.
Người lên tiếng đó chính là Đa Kế. Lạc Hầu Công nói:
Mau dồn quân chạy về sông Tây Giang.
Tức thời pháo lệnh đỏ bắn lên, khẩu lệnh truyền ra dồn quân về cánh Nam, trời lúc nầy đã tối, ánh trăng soi đường, trận chiến còn vang dội, nhưng lúc nầy đã nghiêng về phía quân Ân, nhờ có Ân Mao Vương, Nghịch Phong, Hung Nô Vương thần thông quảng đại, quân Văn Lang bị đánh thê thảm.
Được lệnh rút lui quân Văn Lang ào ào chạy về phía Nam, đánh bật Hổ Tinh, chạy về hướng Lũng Trung Châu, bại binh chạy suốt cả đêm, tới sáng thời tới Vân Châu, bại binh dừng nghĩ, người nào người nấy bò la bò lết đi hết nổi. Nguyên Minh cho người kiểm lại quân binh thời chỉ còn hơn bốn vạn, đi tiêu mất sáu vạn quân.
Nhìn lên trời than thở:
Không ngờ quân Ân nhiều nhân vật tài năng như vậy, ngũ hành cờ trận mà cũng phá được.
Quân binh nghĩ không được bao lâu thời nghe tiếng ngựa hí từ xa vọng lại. Nguyên Minh cùng các Tướng kinh hãi: Quân Ân đã đuổi theo đến nơi rồi sao?
Nguyên Minh nhìn lên trời nói:
Thôi thì quyết tử tại nơi đây vậy.
Liền cho bắn pháo lịnh tử chiến.
PHẦN 19: BẠI TRẬN
Đây nói về Cao Hải, hiệp lực với quân Xích Linh đại phá đánh bại 30 vạn quân Hung Nô. Lạc Hầu Công, mời Cao Hải cùng các quan Tướng vào thành thiết đải, ăn mừng thắng trận. Cao Hải ở lại thành Xích Linh chưa được mấy ngày trong lúc đang bàn Quốc Sự thời có quân vào báo. Đô Tướng Quân có thư.
Cao Hải nhận thư đọc xong thời nước mắt ràn rụa. Ai nấy cũng đều kinh hải tự hỏi: Chuyện gì thế? Trải qua một hồi lâu dằn cơn xúc động.
Cao Hải nói:
Cao Sơn chết rồi.
Cao Hải liền đưa thơ cho các Quan Tướng xem. Lạc Kim Tiên xem xong nói:
Quân Ân dồn hết lực lượng phá doanh trại ngũ hành trận, đây là cơ hội cho chúng ta, cướp phá lương thực chúng, rồi từ phía sau đánh bọc tới, tiêu diệt chúng, chỉ cần một trận nầy chiến thắng thời quân Ân sẽ khiếp kinh hồn vía.
Lạc Hồng Hầu nói:
Muốn tới Kinh Đô nhanh thời phải đi qua đồi Mục Linh. Đồi Mục Linh hiện giờ quân Ân đang phục kích ở đó, chỉ còn có cách là đi đường vòng, bọc qua đồi Mục Linh, rồi bất ngờ xông vào cướp doanh trại của chúng.
Lạc Hầu Vương nói:
Quân Xích Linh cùng tham gia trận chiến Đô Tướng Quân cứ ra lịnh.
Cao Hải nói:
Thành Xích Linh không thể bỏ trống, phải có quân binh trấn thủ.
Trong lúc còn đang bàn tán, thời có quân thám báo vào báo:
Quân Ân giao chiến với quân ta hơn nửa ngày rồi.
Thời gian quá gấp Cao Hải từ biệt Lạc Hầu Công cùng các quan tướng thành Xích Linh, triển khai lực lượng, phân bổ như sau:
Phan Thanh Hải, nghe lịnh Có thuộc hạ, Ngô Việt nghe lịnh. Có thuộc hạ. Hai Tướng Quân một trưởng, một phó, thống lĩnh một vạn quân mở đường đi trước, còn đại quân đi sau, tuân lệnh.
Đi đường vòng hơi xa mặt trời chưa lặn quân binh đã lên đường rồi. Nói về Phan Thanh Hải, Ngô Việt, mỗi người thống lãnh một vạn quân đi trước, đạo quân Thanh Hải tiên phong đi trước, đạo quân Bố Chánh Ngô Việt tiếp theo sau bọc đường vòng qua khỏi đồi Mục Linh hơn 10 dặm ánh trăng vằn vặt, nếu đôi mắt sáng thời nhìn thấy tận xa xa, khi đạo quân, Thanh Hải, Ngô Việt qua khỏi đồi Mục Linh thời không còn lo sợ phục kích nữa.
Nói về Hung Quân Liệt theo kế sách của Ân Mao Vương, chia làm hai đạo quân, phục kích đi đường vòng của quân Văn Lang nằm im chờ đợi. Hung Quân Liệt thấy quân Văn Lang xuất hiện thời khen Ân Mao Vương liệu tính như thần. Thấy Quân Văn Lang đã nằm gọn trong ổ phục kích, nhưng Hung Quân Liệt không tấn công, để cho đạo quân Thanh Hải đi qua lọt vào vòng vây thứ hai, khi đạo quân Ngô Việt lọt vào ổ phục kích.
Hung Quân Liệt nói:
Đây mới chính là đạo quân chủ lực.
Chờ cho đạo quân Ngô Việt lọt vào vòng vây, thời Hung Quân Liệt thổi tù tấn công, thế là tên bắn ra như mưa, quân Văn Lang bị đánh bất ngờ kinh hãi rối loạn, không rõ quân địch để mà chống trả.
Nói về Phan Thanh Hải thúc quân di chuyển nhanh về Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỹ, thời nghe phía sau đạo quân trận chiến đã nổ ra ầm trời ầm đất, không lẽ đã bị phục kích, liền cho quân dừng lại không tiến nữa. Tiến tới không được lùi lại không xong, chưa biết phải làm gì thời nghe quân reo dậy đất quân Hung Nô ào ào lao ra tấn công, tên bắn như mưa, quân Văn Lang bị tấn công bất ngờ hốt hoảng rối loạn, quân Hung Nô chủ động trận địa đánh tới tấp, quân Văn Lang chết như rạ. Phan Thanh Hải thét lớn bình tỉnh chiến đấu, tức thời quân Văn Lang lấy lại bình tĩnh chiến đấu quyết liệt, xông lên xáp lá cà với quân Hung Nô.
Về sau có thơ rằng:
Một bên là lính Văn Lang
Một bên là giặc bạo tàn ngoại xâm
Quân giặc cuồn cuộn xông lên
Chủ trì trận địa giáo gươm ầm ầm
Văn Lang bị động hoàn toàn
Thây nằm la liệt khắp cùng xiết bao
Tinh thần quyết tử dâng cao
Chỉ còn hơi thở cũng nào xông lên
Hung Nô cũng phải khiếp kinh
Văn Lang quyết tử dâng lên cuộn cuồn
Hung Nô thiệt hại cũng nhiều
Mới hay con cháu Tiên Rồng Uy Linh
Dù cho đất lở trời nghiêng
Tinh thần quyết tử hùng anh lạ đời
Kinh thay dòng máu Lạc Hồng
Tử sanh, sanh tử, lông hồng nhẹ tênh
Hy sinh vì nước vì dân
Linh hồn nhẹ bỗng chín tầng Trời Cha
Vì non vì nước vì nhà
Tử sanh, sanh tử, sá gì như không.
Quân Hung Nô thấy Phan Thanh Hải, múa đao chém quân Hung Nô như chém chuối, tức thời quân Hung Nô tập trung bắn tới Phan Thanh Hải. Phan Thanh Hải trúng tên khắp cả mình đành phải bỏ mạng. Quân Văn Lang tuy rắn mấy đầu nhưng không bao giờ bỏ chạy, người nầy ngã xuống người khác xông lên, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, quân Hung Nô khiếp vía kinh hoàng, trước khí phách hào hùng quân Văn Lang.
Nói về Ngô Việt biết mình đã lọt vào ổ phục kích của quân giặc, từ nơi ẩn núp quân Hung Nô bắn tên ra như mưa, quân Văn Lang vô cùng hỗn loạn. Ngô Việt thét lớn bình tỉnh chiến đấu, tử chiến tử chiến, tức thời quân Văn Lang hò reo dậy trời dậy đất, lao vào quân Hung Nô như vũ bão, tiếng gào thét ........ ........, thế là trận đánh xáp lá cà, gươm đao giáo mác dậy trời dậy đất.
Về sau có thơ rằng:
Ầm ầm trận đánh kinh thiên
Đao gầm, kiếm thét, liên miên ầm ầm
Tên lao rợp đất rợp trời
Thân người ngã gục xác người như non
Chiến trường nổi gió nổi dông
Quân binh ào tới giáo gầm kiếm tuôn
Rền trời hai tiếng xung phong
Giáo gươm xối xả ôi thôi bịt bùng
Đùng đùng vang dội đùng đùng
Văn Lang quyết tử, mất còn tại đây.
Nói về Hung Quân Liệt thấy quân Văn Lang chiến đấu anh dũng như thế cũng phải khiếp hoảng. Quân Văn Lang gan đồng dạ sắt chăng, coi cái chết như không, không lẽ đây là tinh thần Quốc Đạo Văn Lang, được kể qua truyền thuyết, Hung Quân Liệt càng khiếp hãi.
Nói về Bố Chính Ngô Việt, thương tích đầy mình, cố thúc ngựa phá vòng vây lao ra khỏi trận địa chạy về phía đại quân Văn Lang đang đi phía sau.
Đây nói về Cao Hải nghe chiến trận nổ ra phía trước liền biết là hai đạo quân tiên phong đã sa vào ổ phục kích của quân giặc, liền cho đại quân dừng lại, với tinh thần chuẩn bị chiến đấu cao, khi có quân địch tấn công.
Cao Hải phi ngựa lên phía trước xem xét tình hình, thời thấy Ngô Việt mình đầy máu me cỡi ngựa lao tới nói:
Tướng quân mau cho quân rút lui, quân giặc phục kích khắp nơi.
Nói xong Ngô Việt tắc thở. Cao Hải đau xót vô cùng, biết là quân Ân đã lường trước tất cả, đón được ý đồ của chúng ta, phục kích chận đánh khắp nơi, nên không dám rút quân về thành Xích Linh, sợ quân giặc phục kích đánh bọc hậu. Nên nhanh chóng rút quân về Huyện An Giao, quân đi đến gần sáng, tưởng là đã thoát ra khỏi sự phục kích của quân giặc, đại quân vừa mới chạm chân đến Huyện An Giao, thời nghe tiếng tù nổi lên, hai bên đường tên bắn ra như mưa. Quân Văn Lang bất ngờ hốt hoảng. Cao Hải thúc quân tiến tới, chống trả nhanh chóng thoát ra khỏi ổ phục kích của giặc. Quân giặc, ào ào rượt đuổi theo, quân Văn Lang không chạy về Huyện An Giao, mà chạy về Vân Châu.
Nguyên Hạo Hạo chạy trước mở đường khi đến Vân Châu thấy có quân phía trước, thời vô cùng kinh hãi, quày ngựa trở lại báo với Cao Hải:
Bẩm Đô Tướng Quân, phía trước có quân mai phục.
Cao Hải giật mình kinh sợ, thở dài nói:
Quân giặc tài đến thế sao? Ý Trời đã thế, chúng ta đành bỏ mạng tại Vân Châu vậy.
Cao Hải cho quân dừng nghỉ dưỡng sức, rồi quyết một trận sanh tử với giặc. Đến khi nhìn thấy pháo lệnh tử chiến, biết đây là pháo lệnh của quân Văn Lang, Cao Hải mừng rỡ vô cùng, cho bắn pháo lệnh đáp trả, để nhận ra nhau.
Nguyên Minh thấy pháo lệnh nói:
Đó là quân ta, quân của Đô Tướng Quân Cao Hải.
Nguyên Minh biết Cao Hải cũng đã thất bại, nên mới chạy đến đây. Không bao lâu Cao Hải dẩn tàn quân chạy đến, Nguyên Minh, Cao Hải ôm nhau mà rơi nước mắt, hơn hai mươi vạn quân giờ chỉ còn không đầy mười vạn, một tổn thất nặng nề, Nguyên Minh cũng cố lại lực lượng, xin viện binh từ Kinh Đô Văn Lang, chờ cơ hội đánh trả, chận đứng không cho quân Ân tiến vào Trung Văn Lang, Nguyên Minh chưa có tin tức gì về Nguyên Dực.
PHẦN 20: PHÁ TRẬN
Đây nói về Nguyên Dực, cùng quân binh nhờ trận ngũ hành giặc Ân chưa làm gì được, lại còn đánh cho quân giặc tả tơi chết vô số kể, định tiến quân ào ra tiêu diệt quân Ân, nhưng thấy quân Ân còn đông như kiến, không thể nào đánh bại được.
Lại nói về Sát Sát, ỷ mình quân đông lại có pháp thuật, có thể phá trận ngũ hành dễ dàng, không ngờ không phá được lại đi tiêu hơn bốn vạn quân giờ mới biết sợ hãi, lập đàn cầu sư phụ. Không bao lâu thời một Đạo Cô xuất hiện, tên là Hồ Bạch Hoa.
Sát Sát lễ lạy rồi nói rằng:
Con đang gặp phải khó khăn, lời đồn quả không sai phương Nam có trận ngũ hành vô cùng lợi hại, không dễ gì phá được.
Hồ Bạch Hoa nói:
Ta biết vậy nên đến đây giúp con, phương Bắc nhà Chu cũng có ngũ hành trận, nhưng không lợi hại như ngũ hành trận phương Nam. Vì ngũ hành trận phương Nam, kèm theo ngũ kỳ trận uy lực vô biên, muốn phá được ngũ hành trận, phải phá ngũ kỳ trận trước, nếu không có công tu luyện hàng nghìn nghìn năm thời không bao giờ phá được.
Bằng thắp hương lâm râm niệm chú, không bao lâu thời có hai Đạo Cô, một Đạo Tiên xuất hiện. Hồ Bạch Hoa giới thiệu hai Đạo Cô. Hồ Bạch Hoa chỉ Đạo Cô mặc áo xanh nói:
Đây là Thanh Xà Đạo Cô, còn đây là Tý Bạch Đạo Cô, còn đây là Bạch Hầu Đại Tiên.
Sát Sát theo lời giới thiệu mà lạy tạ. Sát Sát mời các sư phụ vào ghế ngồi. Hồ Bạch Hoa nói:
Phá ngũ kỳ trận đều nhờ hết vào Đại Tiên.
Bạch Hầu Đại Tiên nói:
Bạch Muội, chịu trách nhiệm đánh vào Tây kỳ, phá cho được cờ trắng. Thanh Xà Đạo Cô, đánh vào đông kỳ, phá cho được cờ xanh. Tý Bạch Đạo Cô, đánh vào Nam kỳ, phá cho cho được cờ đỏ. Sát Sát, đánh vào Bắc kỳ, phá cho được cờ đen, chỉ cần phá được một trong năm kỳ, thời bốn kỳ kia tự biến mất.
Sát Sát là người nóng lòng phá trận, bằng cỡi thiên lý mã bay lên không lao xuống trung tâm Bắc kỳ trận, rút kiếm chém xuống lá cờ đen, không ngờ lá cờ đen tỏa hào quang chống trả ầm ầm, kinh thiên động địa. Sát Sát bị mây đen, mây trắng cuồn cuộn bao vây che chắn tầm nhìn khó mà đánh trúng lá cờ đen. Sát Sát tức quá cỡi ngựa thần lao xuống, vung kiếm báu chém xuống ầm ầm, bỗng Thủy Thần xuất hiện múa gậy thần chống trả, hai bên đánh nhau rền trời rền đất. Sát Sát hóa phép liên miên, nhưng bị thần lực ngũ kỳ hóa giải cả. Sát Sát thất kinh. Sát Sát võ nghệ cao cường áp đảo Thủy Thần, bất thình lình Sát Sát lao xuống chém Hắc Kỳ một nhác như tia chớp, thời có tiếng quát xem nầy, một lằn ánh sáng chớp lên chống đỡ, choang một tiếng đinh tai nhức óc. Người ra đòn chống đỡ đường kiếm của Sát Sát là ai thế, còn ai vào đó nữa chính là Lê Anh.
Nói về Lê Anh ở trên đài quan sát, thấy Sát Sát cỡi ngựa từ trên không lao xuống chém vào Hắc Kỳ thời vô cùng kinh hãi, múa đao chống đỡ, choang một tiếng đinh tai nhức óc. Thủy Thần cũng múa gậy đánh tới. Sát Sát múa kiếm chống trả, Sát Sát đảo ngựa bất ngờ đánh xuống một chưởng, tức thời Hắc Kỳ tỏa hào quang chống trả ầm một tiếng long trời lở đất. Sát Sát quyết tâm phá cho được Hắc Kỳ, đã trôi qua mấy giờ nhưng vẫn chưa làm gì được.
Cùng lúc ấy Hồ Bạch Hoa múa phất trầm tới tấp đánh xuống Bạch Kỳ, Kim Thần xuất hiện múa gậy chống trả, nhờ có thần lực Bạch Kỳ hổ trợ Kim Thần, nên Bạch Hoa chưa thể hạ gục được Kim Thần, hai bên đánh nhau rền trời rền đất. Hồ Bạch Hoa hóa phép liên miên nhưng chưa phá nổi uy lực Ngũ Kỳ. Hồ Bạch Hoa phất tay một đạo chỉ quang đánh xuống Bạch Kỳ, Bạch Kỳ tỏa hào quang chống trả ầm đinh tai nhức óc. Kim Thần múa gậy xông tới, đánh Bạch Hoa, Bạch Hoa múa phất trần chống trả, hai bên đánh nhau dậy trời dậy đất, bất phân thắng bại. Hồ Bạch Hoa bất ngờ ném lên một vật, hóa thành con chồn có cánh bay nhanh chụp xuống cờ trận, tức thời một tia chớp nổi lên chém tới con chồn có cánh. Ầm một tiếng, con chồn nát tan, ai mà có đường đao nhanh đến thế, còn ai nữa chính là In Đô.
In Đô theo dõi trận chiến giữa Kim Thần và Bạch Hoa, nhất là chú ý Bạch Hoa, thấy Bạch Hoa ném ra một vật, hóa thành con chồn lao xuống cướp lấy cờ trận, tức thời In Đô múa đao chém tới, con chồn trúng một đao tan xác. Bạch Hoa thấy mất bảo bối vô cùng tức giận thét lên inh ỏi. Phất trầm trên tay phất lên lia lịa, những trận cuồng phong tuôn ra tưởng chừng như đất trời muốn sập đến nơi. Kim Thần múa gậy kình lực tuôn ra chống trả quyết liệt, ầm ầm đùng đùng liên miên bất tận.
Cùng lúc ấy Tý Bạch Đạo Cô, ra sức đánh với Hỏa Thần. Hỏa Thần cũng không chịu kém, hai bên đánh nhau, mù trời mịt đất. Tý Bạch múa phất trần đánh Hỏa Thần tới tấp, bất ngờ biến mất, là cờ đỏ bỗng tỏa hào quang ầm ầm đùng đùng. Tý Bạch Đạo Cô chưa có cách nào phá được cờ trận, lại bị Hỏa Thần tấn công tới tấp. Tý Bạch Đạo Cô liền hiện nguyên hình một con chuột bạch to lớn, thổi ra một luồng bạch quang, xuống cờ trận tức thời hàng loạt tiếng nổ nổi lên rung chuyển đất trời, đài quan sát như muốn sập, nhưng cờ trận vẫn còn không hề hấn gì. Hỏa Thần ném gậy lên không niệm chú, cây gậy Thần tỏa hào quang đánh xuống, con chuột bạch tức thời biến mất, lao xuống quan sát đài chụp lấy lá cờ trận. Dương Điền luôn theo dõi trận chiến giữa Hỏa Thần với Tý Bạch Đạo Cô, thấy Tý Bạch Đạo Cô hiện nguyên hình là con chuột bạch to lớn, thổi ra luồng bạch quang, xuống lá cờ trận, Dương Điền sít chút nữa thời bỏ mạng, thấy con chuột bạch biến mất liền sinh nghi liền chém tới một đao, đến chỗ lá cờ chỉ nghe nổ ầm một tiếng, hình như trúng phải một cái gì, con chuột bạch đỡ được đường đao của Dương Điền, liền hiện lại nguyên hình là Tý Bạch Đạo Cô. Tý Bạch Đạo Cô định phóng ra một lưỡi kim đao nhỏ xíu giết chết Dương Điền. Hỏa Thần liền lao tới gậy Thần trên tay vùn vụt đánh tới tấp vào Tý Bạch Đạo Cô, Tý Bạch Đạo Cô càng đánh càng kinh hãi không ngờ ngũ hành cờ trận lại lợi hại như vậy.
Đây nói về, Thanh Xà Đạo Cô là một con trăn tu luyện mấy nghìn năm, thần thông pháp thuật cao cường, đánh mới Mộc Thần, Mộc Thần nhờ ứng hiệp theo cờ trận nên Thanh Xà Đạo Cô chưa làm gì được. Thanh Xà Đạo Cô liền hóa ra một trận cuồng phong hầu quét sạch mây trận, đánh tan che chắn tầm nhìn, không ngờ mây trận lại cuồn cuộn tuôn ra dữ dội hơn nữa. Thanh Xà chỉ tay một cái, tức thời xuất hiện một tia sáng đánh xuống lá cờ xanh, lá cờ xanh liền tỏa hào quang chống trả, ầm ầm đùng đùng. Mộc Thần múa gậy giông tố nổi lên ầm ầm đánh tới Thanh Xà Đạo Cô, hai bên đánh nhau càng về sau càng dữ dội. Thanh Xà vừa đánh với Mộc Thần bất thình lình thổi ra một con trăn có cánh, bay xuống cắn nát là cờ Thần, nào hay bị chém trúng một đạo biến mất. Thanh Xà Đạo Cô đau đớn như trúng phải một đao, tức giận gầm lên hiện nguyên hình là một con trăn to lớn dài mấy chục thước, mồm con trăn phun ra lửa dữ, hầu đốt cháy sạch quan sát đài.
Nói về Lô Gô, chém trúng con trăn nhỏ do Thanh Xà Đạo Cô thổi ra, Thanh Xà Đạo Cô tức giận hiện nguyên hình là một con trăn to lớn dài mấy chục thước, miệng khè ra lửa, đuôi quật lên dông bão ầm ầm làm khiếp kinh quân binh. Hỏa Thần ném gậy lên không niệm chú, gậy Thần tỏa ra hào quang sấm nổ nổi lên sấm sét đánh xuống. Con trăn to lớn biến mất, những tiếng nổ ầm ầm liên miên bất tận. Lô Gô bị kình lực giao tranh giữa cờ trận Hỏa Thần, Thanh Xà Đạo Cô hất rớt xuống quan sát đài. Lô Gô kinh hãi, cuộc chiến Hỏa Thần, Thanh Xà Đạo Cô càng trở nên quyết liệt. Lô Gô bị trúng kình lực ê ẩm cả mình, nếu không có áo giáp thời coi như toi mạng rồi.
Nói về Bạch Hầu Đại Tiên, chiến đấu với Thổ Thần long trời lở đất chưa có cách gì phá được cờ trận, bỗng thấy Thần lực cờ trận yếu xuống, thời biết đây là cơ hội may ra phá được, liền hóa phép tức thời yêu tinh quỉ dữ đầy trời xông vào đánh với Thổ Thần, lao xuống trung tâm quan sát đài đánh với Nguyên Dực.
Nói về chủ soái Nguyên Dực ở trên đài quan sát theo dõi trận chiến giữa Thổ Thần với Bạch Hầu Đại Tiên, bỗng thấy yêu tinh quỉ dữ xuất hiện đầy trời, lao xuống đài quan sát tấn công mình, Nguyên Dực vốn võ nghệ cao cường lại có pháp thuật thần thông nên chống trả lại yêu tinh quỉ dữ, cuộc chiến xảy ra kinh thiên động địa. Bỗng nghe một tiếng nổ long trời lở đất, cờ trận đã bị phá lá cờ vàng đã bị rách nát, sương mù, mây đen, mây trắng, ngũ thần biến tan hết thảy. Nguyên Dực kinh hoàng khiếp vía, ngũ hành cờ trận mất đi thời sức mạnh huyền bí của quân Văn Lang không còn nữa, chỉ còn nhờ vào cái tài điều binh khiển Tướng mà thôi.
Đây nói về Sát Sát thấy cờ trận tan biến không còn vô cùng mừng rỡ nhìn thấy rõ quân Văn Lang, chỉ cần tiêu diệt năm vị Tướng trên quan sát đài thời coi như ngũ hành trận bị phá vỡ. Sát Sát liền cỡi ngựa lao xuống đài quan sát chém Lê Anh múa đao chống trả, đường gươm Sát Sát nhanh khôn tả, lại ẩn tàn một kình lực vô biên. Lê Anh múa đao như mưa sa bão táp chém tới ầm ầm, con thiên lý mã bay lên không Sát Sát niệm chú tức thời một trận cuồng phong nổi lên cuộn xuống Lê Anh. Lê Anh không còn đứng vững được nữa, Sát Sát lao xuống chém một gươm bỏ mạng. Thế là cánh Bắc ngũ hành trận bị phá vỡ, Sát Sát bay tới chỗ quân Ân ra lệnh tấn công. Thế là Tào Bá, con của Tào Côn ra lệnh ba đạo quân binh ào ào xông vào Bắc trận, quân Văn Lang chỉ còn ra sức chống trả. Sát Sát hóa phép cuồng phong cuốn tới quân Văn Lang tối tăm mù mịt nghiêng ngả quân binh, quân Ân lao tới chém như mưa, quân Văn Lang thi nhau ngã gục.
Nói về Thanh Xà Đạo Cô thấy ngũ hành cờ trận đã bị phá, nhưng còn ngũ hành trận pháp cũng vô cùng lợi hại, nên bay xuống giết chết Lô Gô phá vỡ trận pháp. Thanh Xà Đạo Cô thổi ra một luồng hắc khí Lô Gô xây xẩm mặt mày. Thanh Xà Đạo Cô lao tới đánh một chưởng kết liễu mạng sống Lô Gô. Bỗng một con Phụng Hoàng xuất hiện, hào quang rực rỡ, Thanh Xà Đạo Cô khiếp vía tàn hình trốn mất. Lô Gô thoát chết, nhưng không còn đứng dậy nổi, quân binh thấy thế đưa Lô Gô xuống đài chữa trị.
Nói về Võ Vu thấy ngũ hành cờ trận đã bị phá liền xua quân ào ào lao vào trận địa tấn công quân Văn Lang, quân Văn Lang chống trả quyết liệt, hai bên đánh với nhau rền trời rền đất.
Thế là trận đánh kinh thiên
Đao gầm kiếm thét liên miên ầm ầm
Ngựa người lao tới rầm rầm
Cuộn cuồn lớp lớp đạp càn lên nhau
Kiếm đao xối xả như mưa
Thây người ngã gục nào thua lở đồi
Hai bên đánh xáp lá cà
Chiến trường gào thét ôi là kinh thiên
Đất trời như muốn ngã nghiêng
Cuồng đao, bão kiếm, mưa tên bịt bùng
Núi non rung chuyển đùng đùng
Rồng Tiên, cọp, sói, tranh hùng dậy non.
Đây nói về Hồ Bạch Hoa, thấy ngũ hành cờ trận đã bị phá, nhưng ngũ hành binh pháp vẫn vô cùng lợi hại, không dễ gì quân Ân chiếm lấy ưu thế, liền bay xuống hạ gục In Đô. In Đô múa đao chống trả, Hồ Bạch Hoa thấy In Đô võ nghệ cao cường, khó mà hạ gục nhanh chóng được, bằng thổi ra một luồng hơi độc, In Đô xây xẩm mặt mày. Hồ Bạch Hoa bay tới kết thúc sanh mạng của In Đô. Sanh mạng In Đô chết sống trong đường tơ kẽ tóc, bỗng một con Rồng xuất hiện, múa vuốt chụp Bạch Hoa. Hồ Bạch Hoa khiếp vía tàn hình trốn mất. In Đô vì trúng độc mắt mở không ra nằm yên bất tỉnh, quân binh khiêng xuống lo chạy chữa.
Cùng lúc ấy Tý Bạch Đạo Cô, đang chiến đấu với Dương Điền. Dương Điền võ nghệ cao cường, Tý Bạch Đạo Cô chưa thể hạ gục được ngay, bằng thổi ra một luồng yêu thuật, bỗng thấy một con chim điêu xuất hiện, hào quang sáng chóa. Tý Bạch Đạo Cô kinh hãi hóa ra một trận cuồng phong trốn mất. Dương Điền, thấy quân Hồ tràn vô như nước lở phất cờ chỉ huy đánh trả. Quân Hồ bị hỏa trận quân binh Văn Lang vô cùng lợi hại. Đánh quân Hồ tơi tả. Hồ Mị Hoa phi ngựa tới hét lớn, niệm chú chỉ kiếm, tức thời cuồng phong nổi dậy ầm ầm, ập tới quân Văn Lang, quân Văn Lang ngã rạp, quân Hồ ập tới chém xối xả, quân Văn Lang chết thôi là chết.
Về sau có thơ rằng:
Dù cho nát thịt tan xương
Cũng không lùi bước ........ diệt thù
Kìa lũ giặc ào ào tràn tới
Hỡi xông lên tử chiến hùng anh
Liệt oanh anh dũng liệt oanh
Đánh cho quân giặc tan tành khói mây
Thân ngã xuống hồn bay trận chiến
Đánh quân thù tan biến tiêu ma
Văn Lang non nước sơn hà
Dễ gì cướp được yêu tà ngoại xâm.
Nói về Bạch Hầu Đại Tiên, phá tan ngũ hành cờ trận, nhưng ngũ hành binh pháp cũng vô cùng lợi hại, bằng bay xuống tiêu diệt Nguyên Dực. Nguyên Dực võ nghệ cao cường lại có pháp thuật, không dễ gì vài ba mươi hiệp, hạ gục được. Bạch Hầu Đại Tiên liền hóa phép, yêu tinh quỉ dữ bao vây bốn phía tấn công Nguyên Dực. Nguyên Dực múa gươm chống trả, đường gươm như mưa sa bão táp, yêu tinh tuy đông nhưng không làm gì được. Bạch Hầu Đại Tiên nổi giận, liền nhả ra một viên ngọc ném lên không hô biến, tức thời những tia hào quang chiếu xuống Nguyên Dực trúng phải những tia hào quang liền xây xẩm mặt mày, ngã gục xuống sàn, yêu tinh quỉ dữ lao tới xé xác. Bỗng Hoàng Long xuất hiện, nuốt mất viên ngọc tu luyện hơn mấy nghìn năm mới thành của Bạch Hầu Đại Tiên. Bạch Hầu Đại Tiên kinh hồn bạt vía, tàn hình trốn mất. Nguyên Dực thoát chết, nhìn thấy cánh Bắc, cánh Nam, đã bị quân Ân, quân Hồ phá vỡ.
Chưa biết phải làm sao thời có tiếng nói lớn:
Chủ soái mau ra lệnh cho quân binh phá vòng vây cánh Đông, chạy về Ninh Châu, cố thủ.
Người lên tiếng đó chính là Hầu Thái Công. Nguyên Dực tức thời truyền lệnh cho quân binh phá vòng vây cánh Đông. Võ Vu chống trả không nổi đành bỏ chạy, quân Văn Lang ào ào tuôn ra chạy về Ninh Châu, quân Ân rượt theo một đoạn, không rượt theo nữa, vì lúc nầy trời đã tối. Nguyên Dực dẫn tàn binh về gần tới Ninh Châu, thời thấy Lạc Đại Vương, Bạch Tướng Quân dẫn quân ứng cứu.
Hầu Thái Công hỏi:
Sao biết quân ta thua mà ứng cứu.
Lạc Đại Vương cùng Bạch Tướng Quân nói:
Chúng tôi luôn luôn cho quân thám báo theo dõi tình hình cập nhật liên tục trận chiến, nghe nói mây trận đã bị phá vỡ, thời biết quân ta không thể nào chống cự lại được, liền dẫn quân đến ứng cứu.
Khi quân binh về hết thành Ninh Châu, cửa thành liền đóng lại phòng thủ nghiêm ngặt. Lúc nầy Nguyên Dực cho người điểm lại binh lính, thời đi tiêu năm vạn chỉ còn năm vạn, thời chỉ biết thở dài. Bằng hỏi qua tình hình, đồi Vạn Lâm, cũng như đạo quân của Việt Luân Tướng Quân. Bạch Tướng Quân, rơi nước mắt kể lại tất cả những gì quân thám báo đã báo. Rồi nói rằng:
Chiến dịch ra quân chúng ta đã bị bại lộ, là do hai con quỉ nghe lén thông tin, sau nầy mới phát hiện được. Là vì chúng tiếp tục nghe lén, khi phát hiện ra chúng thì chúng biến mất. Quân Ân vì thế mà đi trước ta một nước cờ, là do bại lộ thông tin, khi chúng ta bàn kế sách. Chúng đưa quân phục kích đồi Vạn Lâm trước ta, và tiêu diệt quân ta. Hầu Tướng Quân, cũng như Chăm Ly bỏ mạng, năm vạn quân chỉ còn hơn một vạn. Không những thế quân Ân phục kích ở địa phận Ninh Điền khi quân ta đi qua đường quanh co hiểm trở, chúng liền tấn công Việt Luân Tướng Quân bỏ mạng năm vạn quân chết sạch không còn một người.
Nguyên Dực nghe xong thời than thở không thôi. Hầu Thái Công nói:
Việc binh thắng bại là lẽ bình thường, quân Ân lắm nhiều yêu tinh quỉ dữ, trợ giúp khó mà đánh lại chúng. Chủ soái nói rõ tình hình quân giặc xin viện binh củng cố lại lực lượng, quyết một còn một mất với chúng.
Nguyên Dực nghe theo viết thơ dâng lên Vua Hùng cầu thêm viện binh.
Vận nước suy vong nạn dập dồn
Quân binh tướng sĩ lấp vùi chôn
Hết thịnh tới suy thường là thế
Huyền cơ tạo hóa luật nhân sinh
Kiếp nạn Văn Lang Nguồn Cội mất
Gieo mầm chinh chiến khổ đao binh
Nước non lắm cảnh nhiều tai kiếp
Chờ mong Quốc Tổ cứu sanh Linh.
PHẦN 21: KỲ TÍCH XUẤT HIỆN
Ở các thời kỳ Hùng Vương. Anh Linh Quốc Tổ Long Đế Sùng Lãm, người khai sinh ra nước Xích Quỷ thời đại Kinh Dương Vương. Long Đế Sùng Lãm chính là Thiên Long Vương đầu thai, khi mãn kiếp trần gian trở về Trời. Thường hiển Linh hiện về trên khắp đất nước Văn Lang, nhất là thời hậu Hùng Vương. Giúp cho dân Văn Lang luôn trúng mùa, no cơm ấm áo. Anh Linh Quốc Tổ Thiên Long Vương, Sùng Lãm, thường hiện về, với hình dáng người mây, người mây to lớn, dấu chân Anh Linh Thiên Long Vương Quốc Tổ to lớn, đi đến đâu là in dấu chân xuống đó. Không những ở trên đất mà ngay cả trên đá, dấu chân Quốc Tổ Thiên Long Vương Sùng Lãm, không chỉ có trên đất nước Văn Lang, Trung – Nam – Bắc Văn Lang, mà cùng khắp địa cầu, cả Đông lẫn Tây, tạo ra những cơn mưa trái mùa làm cho hoa màu, ngô, lúa, tốt tơi đem lại sự no cơm ấm áo cho toàn nhân loại.
Thiên Long Vương, ở trên Thiên Cung lâm phàm đầu thai xuống thế, khai sinh ra nước Xích Quỷ, mở ra thời đại Kinh Dương Vương. Truyền xuống chín đời, tới đời thứ mười, thời chuyển sang giai đoạn thời đại Hùng Vương, nước Xích Quỷ được mở rộng trở thành nước Văn Lang, 2959 trước Công Nguyên. Anh Linh Quốc Tổ, thời đại Kinh Dương Vương, thường hiện về để lại dấu chân khắp nơi, với hình thể người mây khổng lồ to lớn, để lại dấu chân cũng to lớn.
Người Nam Văn Lang gọi là dấu chân ông Đổng, người Bắc Văn Lang gọi là dấu chân ông Khổng Lồ. Anh Linh Quốc Tổ hiện về không chỉ là hình người, mà chuyển hình người thành hình đám mây che phủ cả một vùng rộng lớn, sau đó thời mưa như trút, những cơn mưa trái mùa, làm cho ao hồ, suối sông, sung mạch trở lại, người dân được trúng mùa lớn. Lúc thời chuyển thân thành hình xoắn ốc, tạo ra những cơn bão lốc, cuốn đi tất cả những ai ăn lộc Trời mà không biết kính trọng Trời, những kẻ bất kính đối với đấng sanh thành Tạo Hóa.
Chuyện lạ ấy cứ xuất hiện mãi, ăn sâu vào tâm thức của mỗi người dân. Có những lần dân thấy Anh Linh Quốc Tổ hiện về, tạo ra cảnh mưa to gió lớn trái mùa, chỉ trong vòng có một ngày mà khai ra nhiều dòng chảy, thành sông thành lạch, đem phù sa về bồi đắp cho làng quê, dân chúng lại trúng mùa lớn, càng thêm no cơm ấm áo. Người dân Nam Văn Lang đã quen gọi sự Anh Linh Quốc Tổ là Ông Đổng.
Có lần dân thấy Ông Đổng tuy là người mây, nhưng lại có hai con mắt sáng chóa. Bàn tay Ông Đổng hễ chạm xuống núi, là núi đó không còn, chỉ trong vòng một đêm ngọn núi biến mất, vì Ông Đổng trút nước xuống làm trôi đi hết, Ông đem đất ấy lấp xuống chỗ sâu, tạo ra những cánh đồng bát ngát, dân chúng vì thế mà có nhiều ruộng để canh tác. Nơi nào xem nhẹ quyền Tạo Hóa, xem thường Thiên Ý của Trời, thời Ông Đổng sẽ lấy đi tất cả, mùa màng thất bát, đồng khô cỏ cháy, vì không có những cơn mưa trái mùa, đói khổ vô cùng.
Có lần dân chúng thấy Ông Đổng, có lần tạo ra những cơn mưa trái mùa khai ra dòng chảy, vun đất thành đồi, tạo ra sấm sét đánh tan những cơn dịch bịnh, hơi thở Ông Đổng phun ra mây đen cuồn cuộn, làm dịu đi cơn nóng oi bức. Ông Đổng khổng lồ thường xuất hiện trong những ngày đầu hè, giữa hè, cuối hè, đem lại nguồn nước Trời, cho cây cối, hoa màu, ngô, lúa, tốt tươi.
Anh Linh Quốc Tổ xuất hiện để lại dấu chân khắp nơi, nhưng nhiều nhất là ở làng Gióng, nổi tiếng là quê hương xứ sở vườn cà, cà ở làng Gióng coi như là đặc sản được đưa đi giao dịch trao đổi khắp nơi. Và cũng từ làng Gióng nầy, xảy ra một kỳ tích được coi như là một huyền thoại chuyện lạ nhất trên đời truyền tụng mãi cho đến ngày nay.
Bắt đầu từ câu chuyện vườn cà.
Xóm dừa nhìn bãi dâu xanh
Gió thu ru nhẹ lá cành làng quê
Cánh cò bay lả bay la
Bay qua bến nước bờ tre ruộng đồng
Trâu nhìn đò chạy trên sông
Mục đồng chăm chú nhìn trông cánh diều
Khói lam tìm ánh nắng chiều
Đàn chim nhẹ cánh tìm về núi non
Bao la trời nhớ đất thương
Non xanh nước biết vấn vương đất trời
Ánh trăng vằn vặt đêm về
À ơi tiếng hát ngọt lành mẹ ru
Ánh đèn soi dáng người thân
Sạm da vì bởi gió sương tháng ngày
Hồ thu nhớ ánh trăng đầy
Nhớ hừng đông dậy, nhớ gà báo tin
Gâu gâu chó hỏi người đi
Vườn cà làng Gióng có ai giữ gìn
Người rằng có một người hiền
Tên là Phù Thị xấu người đẹp tâm
Mười năm ở với Đức ông
Công, dung, ngôn, hạnh, khéo khôn ai bì
Đức ông cảm thấy hài lòng
Xem như con cái chẳng hề so đo
Vườn cà chăm sóc sớm hôm
Lòng vàng tỏa sáng còn hơn ngọc ngà
Tiếng hiền cứ mãi bay xa
Đến tai Thượng Đế, Trời Cha, Chúa Trời
Huyền cơ chuyển biến tất thời
Thiên Long Sùng Lãm xuống trần đầu thai
Vườn cà để lại dấu chân
Trong đêm mưa gió bão giông đùng đùng
Bình minh rực rỡ chân trời
Gió thu hôn nhẹ vườn cà xanh xanh
Phù Thị nhẹ gót nhanh nhanh
Vườn cà một lược nên hư thế nào
Chợt nhìn kinh ngạc làm sao
Dấu chân to lớn nao nao lòng người
Phù Thị ướm thử chân vào
Tự nhiên thấy cả thân người chuyển rung
Tâm hồn kinh hãi hoang mang
Trong người khác lạ càng thêm hãi hùng
Từ đây Phù Thị âm thầm
Dấu đi tất cả những gì xảy ra
Ngày qua tháng lại ngày qua
Bụng càng to lớn dấu đi được nào
Tránh sao được tiếng xì xào
Không chồng mà chửa phạm vào làng qui
Cuộc đời họa phúc éo le
Mấy ai tránh khỏi xưa nay thường hằng
Sau đây câu chuyện của người
Sử Kinh để lại cho đời xem coi
Sự đời là tấm gương soi
Cho bao thế hệ đời sau răn mình.
Ở vào thời hạ Hùng Vương, đời Hùng Vương thứ 6 Hùng Huy Vương, 961 đến 893 trước Công Nguyên, ở bộ Vũ Ninh, Huyện Tiên Du, nơi làng Gióng. Có hai vợ chồng giàu có, là nhờ những vườn cà do ông bà Tổ Tiên để lại, nổi tiếng là đối nhân xử thế, ăn ở phúc Đức, nên dân làng thường gọi hai ông bà là Đức ông, Đức bà.
Đức ông, Đức bà chỉ nuôi một người làm vườn, tên là Phù Thị, quê ở làng Phù. Cũng giống như Đức ông Đức bà, hiền lành nức tiếng, nhưng phải người hơi xấu, không được dễ coi, nên không có người dạm hỏi, tuổi thanh xuân vì thế mà trôi qua, tuổi trung niên như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã hơn bốn mươi tuổi, hơn hai mươi năm ở với Đức ông Đức bà Phù Thị lúc nào cũng xem Đức ông Đức bà như Cha Mẹ của mình, Đức ông Đức bà cũng vậy vì không có con, nên coi Phù Thị như con. Thời gian không chờ đợi ai cứ mãi trôi qua, hết ngày nầy đến ngày khác, hết năm nọ đến năm kia, Phù Thị sống cuộc sống bình yên, như mặt nước hồ thu không gợn sóng.
Chữ ngờ ai biết được đâu
Chỉ trong nháy mắt bể dâu cuộc đời
Hồ thu nổi sóng ngậm ngùi
Phải chăng số phận con người Trời ban.
Ở làng Gióng trải qua một đêm mưa gió, sấm chớp hải hùng, hoa màu bị hư hại. Khác hơn mọi khi Phù Thị hôm nay dậy rất sớm, vì lo sợ vườn cà bị mưa to gió lớn làm hư hại. Trời vừa hừng sáng Phù Thị đã ra vườn cà, thời vô cùng ngạc nhiên vì vườn cà vẫn xanh tốt, như không có chuyện gì xảy ra, trong khi các vườn cà nhà kế bên xơ xác. Phù Thị nghĩ có lẽ Đức ông Đức bà ăn ở hiền lành nên có Thần Linh che chở bảo hộ, nên vườn cà không bị hư hại như thế nầy, Phù Thị đang đi xem xét các luống cà, bỗng phát hiện một dấu chân to lớn. Bà Phù Thị lấy chân mình ướm thử vào, để xem thua kém bao nhiêu, không ngờ vừa ướm chân vào thời thấy toàn thân rung động, chạy khắp người bà Phù Thị vô cùng kinh hãi, không dám kể lại chuyện kỳ lạ nầy với Đức ông Đức bà.
Không ngờ sự ướm chân thử đó, bà Phù Thị dần dần mang thai, cái bụng càng ngày càng lớn.
Đức ông Đức bà kêu Phù Thị hỏi:
Cha nó là ai? Quê quán nơi đâu?
Phù Thị cứ mãi làm thinh không nói ra sự thật. Đức ông Đức bà giận lắm quát mắng:
Ta không ngờ ngươi là con đàn bà cứng đầu không biết lễ giáo như thế, làm những chuyện tày trời, mà không biết xấu hổ gì cả.
Phù Thị biết rưng rưng nước mắt nói:
Ông bà tha tội cho con, chuyện nầy con đâu có muốn, nhưng số con như thế con đành phải chịu.
Bây giờ đã ra người tội lỗi
Mặt cho đời nước chảy hoa trôi
Hóa công sao khéo trêu ngươi
Một mình một cảnh như người lạ xa
Phước trong họa chuyển xây ngao ngán
Nhằm thân nghèo xấu xí mà xây
Nhân duyên số phận láy lay
Chờ xem tạo hóa chuyển xây cuộc đời.
Trong khi ấy dân làng cứ mãi xầm xì, bàn tán lan rộng ra khắp các vùng, tai tiếng của Đức ông Đức bà không nhỏ. Nhất là Đức ông là người mang tiếng hơn hết: Nào là Đức ông lấy con ở, cũng phải thôi phải có người nối dòng, nối dõi chứ, ăn ở hiền lành mà tuyệt nòi tuyệt giống sao được. Nhất là Đức bà vì không chịu được sự đàm tiếu nầy, bằng yêu cầu làng xét xử. Ngày xét xử bà Phù Thị, không những người trong làng Gióng, mà nhiều người dân trong các làng lân cận cũng kéo đến xem. Lạc Điền là vị Quan làng nghiêm khắc đã từng xử không biết bao nhiêu vụ, nhưng đều trôi chảy êm xuôi, để được làm rõ vấn đề.
Vị Quan làng hỏi:
Nầy bà Phù Thị, Cha của đứa bé trong bụng là ai? Tại sao không chịu ra mặt nhận trách nhiệm của mình. Bà cứ nói thật đi ai là Cha của đứa bé trong bụng.
Bà Phù Thị không sợ hãi gì cả, trả lời thẳng thắng:
Đứa bé trong bụng là con của Ông Đổng.
Những người đến nghe đều giật cả mình, ông Quan làng há mồm trợn mắt, Đức ông Đức bà như muốn bật ngửa.
Ông Quan lấy lại bình tỉnh hỏi:
Bà Thị bà nói sao, đứa bé trong bụng bà là con Ông Đổng. Bà không sợ Ông Đổng bẻ cổ bà sao?
Và ai cũng nghĩ bà Thị đã hóa điên, xúc phạm đến Thần Linh. Quan làng hỏi:
Ông Đổng ăn ở với bà thế nào?
Bà Phù Thị dõng dạc nói:
Không ăn ở thế nào cả, tôi chỉ ướm chân tôi vào chân của Ông thế là tôi đã mang thai.
Nghe bà Thị trả lời như thế ai nấy đều cười ồ lên, có người nói mỉa mai rằng:
Mai tôi tới những chỗ có dấu chân ông Đổng ướm vào để sinh con.
Và ai cũng cho bà Thị là người làm bậy xấu hổ quá hóa điên, Đức ông coi như không dính liếu gì đến vụ nầy, nên không tham gia ý kiến tùy Quan làng xét xử.
Lạc Điền, Quan làng tức giận nói:
Bà nói toàn là những chuyện vô căn cứ, lừa dối mọi người, với cái tội không chồng mà chửa làm xấu mặt cả làng.
Cùng lúc xét xử ấy cũng không ít người mắn nhiếc bà, có người mắng nhiếc thậm tệ. Bà Phù Thị chỉ biết rơi nước mắt, chấp nhận số phận, mà Đấng Tạo Hóa đã an bày. Chỉ trong chốc lát bà già đi thấy rõ, có người thương xót cho số phận của người con gái không may mắn xinh đẹp như người ta, giờ lại thêm tai họa giáng xuống.
Hồng trần trong cõi người ta
Mấy ai thoát khỏi nạn tai cuộc đời
Thương người cũng chính thương mình
Hại người Trời hại thường tình xưa nay.
Dân làng Gióng cứ nghĩ bà Phù Thị vụng trộm ăn ngủ với người ta không chịu khai nhận tội một mình. Để lắng dịu sự mắn nhiếc của dân làng.
Quan làng xử như sau: Theo hương ước của làng, thời tội nầy đáng xử tử, nhưng nể Đức ông Đức bà, chỉ trục xuất bà Phù Thị ra khỏi làng.
Bà Phù Thị biết không còn ở với dân làng được nữa, một mình lủi thủi đi về nơi rừng núi cách làng Gióng khá xa.
Lủi thủi xa làng đến núi non
Chân đầy nặng trĩu bụng mang con
Chim kêu vượn hú lòng trống vắng
Thảo mãng hoang vu dạ sắc son.
Bà đến gần mé rừng ngồi dưới một gốc cây, bà nhìn những chiếc là vàng, rời khỏi cành trở về với đất, một nỗi niềm cay đắng, biết tỏ cùng ai.
Lá vàng nầy hỡi lá vàng rơi
Lá theo cánh gió về nơi Cội Nguồn
Còn ta lạc bước phong sương
Rừng xanh che chở náo nương tháng ngày.
Bà Phù Thị mệt lã ngủ thiếp đi lúc nào không hay, đến khi thức dậy thời thấy chim muôn vạn thú đến ở xung quanh bà, chúng đem đến nhiều trái cây hoa quả, bà đã đói mấy ngày, nên bốc lấy ăn ngấu nghiến. Đêm về các nàng Tiên hiện đến dựng cái chòi tranh để cho bà ở, hơn cả tháng dân làng không biết, dân làng không thấy bà xuất hiện, hàng đêm nghe tiếng hổ gầm voi hú, dân làng đồn rằng bà bị cọp ăn thịt rồi, có người cũng lấy làm thương xót cho số phận con người, ngày lại ngày qua bà sống bình yên trong túp lều tranh.
Thế là cuộc sống tạm yên
Non xanh nước biếc cũng yêu Thị bà
Rừng xanh sai quả sai hoa
Để bà sanh sống vượt qua cơ hàn
Sống đời cô độc một mình
Sớm chiều làm bạn thú cầm mua vui
Xuống đồng bắt ốc mò cua
Đem ra làng đổi kiếm ăn qua ngày.
Bà Phù Thị ngoài ăn hoa quả, bà còn xuống đồng, xuống mương bắt ốc mò cua sanh sống còn đem ra làng đổi lấy gạo, nuôi thân. Dân chúng thấy bà xuất hiện vô cùng kinh ngạc bà không bị cọp ăn thịt sao, không thể tin được, ở một mình trong rừng hơn cả tháng mà vẫn bình yên đây mới là chuyện lạ. Ban đầu dân còn ấn tượng không tốt với bà, có những ngày không đổi được gạo đành đem cua ốc về nấu ăn. Nhưng vì cuộc sống nuôi thân nuôi con, bà luôn luôn nhẫn nhịn, nhẫn nhục, nhẫn nại, chịu khó dần dần dân chúng không còn ghét bà nữa, ngược trở lại thương bà, từ đó bà mò cua bắt ốc đổi lấy gạo rất thuận lợi. Bà yêu chim thú như yêu bản thân mình, nên chim thú thường đến với bà, và giúp đỡ bà, trong những ngày mưa gió, cũng như những ngày bà không bắt ốc mò cua.
Lòng chân thật động lòng chim thú
Làm bạn đời khuya sớm có nhau
Màn trời chiếu đất náo nương
Hổ, voi, chim chóc đến chung một nhà
Chim ca hát, hổ gầm voi hú
Làm trò vui giải trí giải sầu
Làm cho người mẹ vui vầy
Quên đi nỗi khổ tháng ngày cô đơn.
Dân làng thấy bà Phù Thị ở nơi hoang vu rừng núi, chim kêu vượn hú, tối về hổ voi gầm rú suốt đêm, mà bà Phù Thị vẫn bình yên, không hề hấn gì cho là có Thần Linh che chở, nên không coi Phù Thị là người xấu nữa. Có những lần bà Phù Thị xuống đồng mò cua bắt ốc, nhưng không được bao nhiêu.
Bà liền khấn vái rằng: Nếu Trời thương hại mẹ con tôi, thời cho tôi bắt thật nhiều cua ốc, thế là bà mò đến đâu thời có cua có ốc đến đó.
Nên lúc nào cũng bắt được nhiều cua ốc, đổi được nhiều gạo dự trữ nuôi thân, trong lúc những ngày mưa gió. Dân làng thấy bụng bà đã lớn, biết cũng sắp đến ngày sanh nở, có người thương còn cho thêm gạo. Có một hôm bọn trẻ con thấy bà Phù Thị một mình trở lại rừng xanh, bằng hát rằng.
Lanh quanh đường đến rừng xanh
Có người phụ nữ bước chân nặng nề
Vai mang gạo bụng thè lè
Chịu thương chịu khó ai bì được đâu.
Sau có người hỏi:
Ai dạy cho mà hát như vậy?
Bọn trẻ trả lời:
Có một Ông Già xuất hiện dạy hát như thế.
Bỗng một hôm bà Phù Thị, nghe trong mình khác lạ, bằng tính đi tính lại, mang thai đã tròn mười hai tháng. Thường thường mang bầu chín tháng mười ngày là sinh, có những lần bà Phù Thị nghĩ: Thánh đầu thai nên mới khác thường như vậy. Bà thường nghe có người mang thai đến ba năm mới sanh, và bà vẫn cứ chờ đợi ngày khai hoa nở nhị, và rồi ngày đó cũng đến. Bà thấy trong mình chuyển dạ, lòng bỗng lo lắng ở nơi hoang vu rừng núi thời biết nhờ ai giúp đỡ, bà thở dài thôi thì mặt cho số phận vậy.
Nghe trong dạ từng cơn đau thắt
Như báo rằng con sắp chào đời
Niềm vui quên hết đau thời
Chỉ mong con trẻ rạng ngời bình yên
Kìa rừng đã lặng yêm đêm phủ
Sương đã về ru ngủ tịnh yên
Cô đơn trong lúc đẻ sinh
Chỉ nghe gió thổi rung rinh căn lều
Đèn không có mịt mù tăm tối
Sao chị hằng chậm thế chưa lên
Ruột càng quặn thắt liên miên
Bỗng nghe hương tỏa lan thơm khắp cùng
Nghe trong dạ nhẹ nhàng nhẹ bổng
Nhiều nàng Tiên bồng ẵm hài nhi
Mệt nhoài bà đã thiếp đi
Chừng nghe chim hót mới hay sáng trời
Nhìn con trẻ lòng đầy sung sướng
Con của ta là Gióng, Gióng ơi
Bình minh rực rỡ chân trời
Bao la rừng núi tràn đầy ấm êm.
Nói về bà Phù Thị thấy trong mình chuyển dạ, thời đã biết mình sắp sinh, nhưng ở nơi hoang vu rừng núi nầy, biết nhờ cậy ai, trời đã lặng, đèn không có, chỉ còn biết trông chờ ánh trăng lên, bà bỗng thấy một con Rồng xuất hiện rồi biến mất, sau đó thời sanh con, hương thơm lan tỏa khắp nơi. Bà thấy Tiên nữ xuất hiện, bồng ẵm hài nhi nhưng vì mệt quá bà đã thiếp đi và không còn biết gì nữa, chừng nghe tiếng chim hót líu lo giật mình tỉnh giấc, thời mới hay trời đã sáng, ánh bình minh đã tràn về khắp núi non, một ngày mới, một ngày đẹp nhất của đời bà, các nàng Tiên cũng biến đi đâu mất, chỉ còn nghe mùi hương thơm lan tỏa khắp nơi.
PHẦN 22: THÁNH CHÚA RA ĐỜI
Niềm vui lớn nhất của bà Phù Thị là nhìn thấy người con mà mình mang trong bụng bấy lâu, cậu bé dễ thương khôi ngô tuấn đến lạ lùng, lòng dâng trào một niềm vui vô hạn.
Lòng vui sướng nhìn con bé bỏng
Mắt sáng ngời như tỏa hào quang
Khôi ngô tuấn tú dễ thương
Trời cho non nước Văn Lang kỳ tài
Bà ôm Gióng vào lòng trìu mến
Tình thương con lai láng trào dâng
Cảm ơn trời đất non sông
Cho bà một đấng hùng anh sau nầy.
Nói về Bà Phù Thị cứ mãi ôm Gióng vào lòng, mà quên đi cả đói khác, từ đó bà Phù Thị không đi bắt ốc mò cua nữa, chỉ ở lều chăm sóc con thơ, nhờ tích trữ được khá gạo qua những ngày gian khổ bắt ốc mò cua, chim thú thi nhau đêm thật nhiều hoa quả đến, để bà ăn có sữa nuôi con. Suốt cả năm liền bà chỉ lẩn quẩn túp lều tranh, dân làng không thấy bà đi bắt ốc mò cua, cũng như xuống làng đổi cua ốc lấy gạo, thời nghĩ bà đã bị cọp ăn rồi, sói nuốt rồi, cũng không ít người rơi giọt lệ, vì cảm thương số phận đầy gian truân, xót xa đến thế.
Một hôm có người nói:
Nầy anh ba anh tư, nầy chị bốn chị bảy chúng ta là những người yêu thương bà Thị nhất, nhưng không dám bao che giúp đỡ vì sợ quy ước của làng, nay bà chết hay còn sống chưa rõ, sao chúng ta không đến đó một chuyến cho biết.
Có người nói:
Nơi bà ở có nhiều thú dữ lắm, chỉ có thợ săn mới dám đến đó mà thôi.
Người kia trả lời:
Chú tư, chú ba không thợ săn là gì.
Thế là họ âm thầm tìm đến khu rừng bà Thị đang ở, nơi bà Thị ở là nơi cỏ dại hoang vu rừng núi cây cối rậm rạp, không bao lâu thời họ cũng tới khu rừng xa xa nhìn thấy túp lều tranh. Lòng họ bỗng nổi lên bao nỗi niềm thương cảm, cho con người bất hạnh, nỗi hiu quạnh cô đơn, một mình nơi rừng núi, sống nơi hoang vu không một bóng người, không hiểu bà còn sống hay đã chết. Và họ quá bất ngờ chợt nghe một giọng hát ru con từ xa vọng lại, có người nói hình như là tiếng bà Thị.
À ơi con ngủ đi con
Cho con mau lớn trông nom rừng già
Con lên non núi cỡi voi
Xuống đồng cỡi hạc bay qua ruộng đồng
Trở thành những bậc anh hùng
Cứu dân cứu nước giống nòi Rồng Tiên.
Có người nói:
Bà sanh rồi, bà đang ru con thì phải.
Và họ đi lần đến túp lều tranh. Nghe tiếng người nói, bà liền im tiếng hát, và cũng nhận ra tiếng nói của những người tìm đến đây. Những người rất thương yêu bà, và thường hay cho gạo bà, vừa bước vào túp lều tranh họ vui mừng reo lên kìa em bé. Thì ra bà sanh con nên không đi mò cua bắt ốc xuống làng đổi gạo. Họ thi nhau xem mặt em bé, người nào người nấy đều kinh ngạc, vì em bé quá khôi ngô tuấn tú, nhất là cặp mắt sáng long lanh.
Chị tư liền nói:
Con Trời có khác, tôi mà có được đứa con như vầy thời khổ mấy tôi cũng chịu.
Chị bảy nói:
Kìa cặp mắt em bé giống cặp mắt Ông Đổng.
Chú tư, chú ba nói:
Tôi tin lời nói của chị Thị khi chị nói trước dân làng, quả đúng là con Ông Đổng.
Chị bảy nói:
Ông Đổng đầu thai chớ con Ông Đổng gì.
Kẻ nói qua người nói lại người nào cũng có cái lý của mình, nên không ai chịu cho mình là đoán sai. Nhìn em bé quá kháu khỉnh không ai muốn xa rời, chừng nghe tiếng hổ gầm thời ai nấy đều kinh hãi, họ liền từ giả Mẹ con Phù Thị trở về làng. Cũng từ đây tiếng đồn lan xa, bà Phù Thị sanh ra Ông Đổng con, khôi ngôi tuấn tú lạ đời, một đồn mười, mười đồn trăm, trăm đồn nghìn. Thế là khắp nơi dân làng bị đánh thức sự tò mò, nhất là những người không gây ác cảm đối với bà, họ rủ nhau kéo tới một ngày một đông, họ đem cho Phù Thị đủ thứ, bà khỏi phải xuống đồng mò cua bắt ốc đổi lấy gạo nữa.
Nói về Đức ông Đức bà, nghe bà con làng xã bàn tán ca ngợi, Phù Thị có phúc sanh ra bé trai vô cùng kháu khỉnh, tôi chưa chưa từng thấy người nào khôi ngô tuấn tú như thế, hai con mắt sáng như sao, quả đúng là một nhân tài sau nầy, quả đúng là con Ông Đổng, hay Ông Đổng đầu thai cũng vậy, tôi mà có được người con như thế thời sung sướng biết bao. Đức ông Đức bà vô cùng ăn năng qua lối cư xử không mấy sáng suốt của mình, cũng bởi gì không chịu nổi sự tai tiếng mà bỏ đi một cơ hội, hiếm có Trời cho. Nhất là Đức ông cứ tiếc nuối mãi, nước đổ khó mà hốt lại, tuổi đã già lại sanh ra nhiều phiền não buồn rầu ăn năng không bao lâu sanh bịnh qua đời. Đức ông qua đời không bao lâu, nỗi cô đơn một mình Đức bà cũng theo ông lìa trần thế, dân làng ai cũng thương Ông Bà, nhưng cũng đáng tiếc cho Ông Bà, tiếng lành, tiếng kính Ông Bà không còn như trước nữa, thay vào đó là tiếng ác, tiếng dại.
Rừng công Đức trăm năm chăm bón
Chỉ một mồi lửa nóng đốt tiêu
Tiếng lành đồn khắp bao nhiêu
Biến thành tiếng ác đổi thay vận đời.
Nói về bà Phù Thị, nghe tin Đức ông Đức bà qua đời ôm mặt khóc lóc, dù gì đi nữa Đức ông Đức bà không coi bà là người ở, mà chỉ coi như con, ơn Đức ấy không sao đền đáp đáp được, bà Phù Thị cầu nguyện cho Đức ông Đức bà sớm siêu sanh về Trời. Túp liều không vắng lặng vì có nhiều người đến thăm, nhưng lòng bà đau đớn, vì nỗi thương nhớ Đức ông Đức bà, cũng đúng thôi, vì bà Phù Thị sống với Đức ông Đức bà trên 20 năm, tình nghĩa ấy không dễ gì phai mờ được, nhìn bà khóc như vậy.
Những người đến thăm nói:
Đức ông Đức bà đối xử với bà không được tốt, thương khóc mà làm gì, kìa em bé nhìn bà kìa. Tên em bé là gì?
Ai nấy chờ nghe câu trả lời của bà. Bà Phù Thị trả lời:
Tôi đặt tên cho con là Phù Đổng, vì quê tôi ở làng Phù, quê con ở làng Đổng.
Dân làng đến thăm viếng nghe bà Phù Thị đặt tên cho con hay làm sao, ai nấy cũng khen. Có người nói:
Chị kết hợp bộ ba đặt tên cho con hay quá.
Có người nói:
Tôi phải thầm phục cho chị Phù, chị kết hợp làng Phù của chị, làng Đổng của con chị, cọng với tên Đổng Cha khổng lồ, ôi cái tên vừa đẹp vừa Linh Thiêng, Phù Đổng nghe hay quá.
Có người nói:
Tên Phù Đổng Linh Thiêng quá, vì động đến Ông Đổng Long Đế Khổng Lồ Cha, không ai dám gọi đâu, chi bằng xóm cà là xóm Gióng, thôi đặc cho em một tên phụ là Gióng.
Ai nấy cũng cho là quá phải, từ đó tên bé Gióng lan truyền khắp nơi. Gióng vẫn lớn bình thường như bao em bé khác, nhưng điều khác lạ ở đây là đã gần ba năm mà Gióng không cười không nói, ngoài ăn uống ra gióng không muốn chơi đùa với ai cả. Những người đến thăm viếng thiếu kiên nhẫn, cho đây là điềm chẳng tốt đẹp gì, niềm tin đối với bé Gióng ngày càng càng giảm sút, tiếng đồn lan ra dần dần cũng ít người đến. Bà Phù Thị không lấy đó làm buồn, sự đời là thế, nghe Ông Đổng con thời ai cũng đến, vì con Trời con Thánh, chừng khi nhìn không phải thời ai ai cũng dần dần bỏ đi.
Có quyền có lực có uy
Nghìn non vạn núi người ta cũng tìm
Sa cơ khốn khổ cùng đường
Ở trong đô thị ai mà thấy chi.
Buổi chiều thu tuy rừng núi chưa chìm trong vắng lặng, nhưng lòng bà Phù Thị đã chìm trong nỗi buồn, cảnh nơi đây vốn là u tịch, lại thêm cuộc đời đơn chiếc.
Lòng buồn cảnh có vui đâu
Cảnh buồn người lại âu sầu cô đơn.
Đúng thôi ngay cánh chim kia, khi chiều tắt đã vội vã trở về, thế mà còn ta, ta về đâu nhĩ, thân nghèo lại bị người ta ruồng bỏ, xa lánh.
PHẦN 23: TRỞ LẠI QUÊ LÀNG
Bà Thị nhìn con rồi nói thầm: Hãy đến một nơi khác đi con, nơi mà hai mẹ con mình không ai biết đến, vì không muốn làm phiền đến ai nữa.
Bà bồng con đến sống dưới bóng cây cổ thụ, cách nơi ở chỗ bà khá xa, trên một cái gò nổi giữa đầm. Nơi đây có nhiều hoa quả, dưới đầm thật nhiều cua ốc, bà no đủ qua ngày.
Các Nàng Tiên lại xuất hiện, tắm rửa cho Gióng, và thường nói với Bà:
GIÓNG là Thiên Long Vương xuống trần đầu thai, sau nầy lớn lên đánh giặc Ân cứu nước.
Hơn ba năm GIÓNG cứ nằm yên hết chõng tre giờ đến chỏng đá, bà Thị nhìn con mà trong lòng vô cùng thương cảm, lâm râm khấn rằng.
Con là Long Đế giá lâm
Cớ sao con mãi nín câm thế nầy
Bây giờ non nước nầy đây
Giặc Ân xâm lấn ôi nầy khổ dân
Con ôi hãy nói cười lên
Con mau chóng lớn mà đi diệt thù.
Lời cầu khấn Mẹ Gióng vừa xong, Thời GIÓNG mở to đôi mắt, tỏa ra hai đạo hào quang, cất tiếng kêu Mẹ đầu tiên vang lên như sấm, làm chấn động đến núi rừng, làng bản.
Đến lúc đó GIÓNG mới rời khỏi chõng đá nói với bà Thị rằng:
Hãy trở về làng sống với dân chúng.
Nói về bà Phù Thị khấn vái xong liền thấy Gióng mở to hai con mắt hai đạo hào quang tỏa ra sáng ngời, bà lấy làm kinh dị, chừng nghe Gióng gọi Mẹ làm chấn động cả núi non làng bản, bà vô cùng mừng rỡ reo lên, con đã nói cười được rồi con của ta bà ôm Gióng vào lòng. Gióng để cho Mẹ lắng dịu qua cơn xúc động, liền nói hãy trở về với dân làng đi Mẹ, dân làng đang trông đợi, kiếp nạn đã hết. Đây nói về Huyện Tiên Du trúng mùa một cách kỳ lạ, nhất là hai làng, làng Phù, và làng Gióng, cũng như xốm cà, lúa thời trổ hai bông trĩu hạt, ngô khoai xanh tốt trúng mùa lạ kỳ, nhất là vườn cà dân làng trúng mùa chưa từng thấy, dân chúng Huyện Tiên Du đang thu hoạch trúng mùa lấy làm vui sướng vô cùng, cho là điềm lành Trời đãi. Ông Đổng đã ban cho dân chúng trúng mùa, họ liền nhớ đến Ông Đổng con, không hai mẹ con bà Thị hiện bây giờ đang ở nơi đâu. Bỗng dân chúng thấy trên bầu trời, nhiều đàn chim bay khắp Huyện Tiên Du hát rằng.
Thánh Gióng về làng, Thánh Gióng về làng
Kìa hai mẹ con, không bao lâu sẽ đến
Hãy mau tiếp đón
Thánh Gióng về làng
Hãy mau tiếp đón
Thánh Gióng về làng.
Đàn chim cứ bay trên bầu trời ca hát như thế, dân chúng nghe theo kéo đến Làng Gióng đông như ngày hội, rồi ra khỏi làng đi đón hai mẹ con Gióng. Dân chúng vừa kéo nhau ra khỏi làng, thời thấy voi, hổ, sư tử, đại bàng, chim điêu đưa Mẹ con Gióng về làng, dân chúng thấy voi, cọp, sư tử, chim điêu, có người sợ đến ngất xỉu.
Gióng nói với dân chúng:
Không có gì phải sợ.
Tiếng nói như sấm chấn động cả núi non làng bản. Đàn voi, đàn hổ, đàn sư tử, đàn chim điêu, không tiễn Mẹ con Gióng về làng nữa, mà quay trở lại về rừng, dân chúng giờ đây tuyệt đối tin Gióng chính là Ông Đổng đầu thai, bằng thi nhau mà lạy và gọi bé Gióng là Thánh Gióng.
Trời thương Bách Việt sơn hà
Từ trong thảo mãng sanh ra Kỳ Tài.
Dân làng khắp nơi tiếp đón Mẹ con Gióng vô cùng rầm rộ, để chuộc tội ngày xưa lầm lỗi xử oan cho bà Thị. Ông Quan trưởng làng Lạc Điền, dẫn cả nhà đến tạ tội và xin nguyện cùng dân làm nhà cho bà Thị ở. Mẹ con Phù Thị được dân làng khắp nơi sùng kính kẻ góp công người góp của chỉ trong vòng một ngày thời có một ngôi nhà khang trang sạch đẹp, dân làng nấu cơm dân lên cho Mẹ con Gióng ăn.
Gióng nói:
Ta sắp đi đánh giặc Ân, dân làng hãy cho ta ăn thật no, ta mới đủ sức đánh giặc Ân được.
Dân làng nói:
Thánh cứ ăn thật no.
Nhưng lạ thay Gióng ăn cơm với cà hết nồi nầy sang nồi khác mà vẫn không thấy no. Dân làng kinh hãi ăn như thế nầy thời cơm gạo lấy đâu ra ăn cho đủ, dân làng thấy Gióng mau lớn một cách kỳ lạ, chỉ trong vòng ba ngày mà đã cao lớn như đứa trẻ mười tuổi, chuyện kỳ lạ nầy đồn ầm lên khắp Huyện Tiên Du, dân chúng thi nhau gánh cơm gánh gạo, gánh cà đến nấu cho Gióng ăn. Nhất làng Phù, quê bà Phù Thị, cùng làng Đổng thi nhau dâng cơm dâng cà cho Đổng ăn. Chỉ trong vòng có mấy ngày mà tiếng đồn lan đến Kinh Thành.
Xóm Gióng bừng lên Đấng Kỳ Tài
Danh rền vang động đến bên tai
Vua Hùng sai sứ xem hư thiệt
Văn Lang kỳ tích rạng trời mây.
PHẦN 24: TRIỀU ĐÌNH
Trời cho Bách Việt Việt Sơn Hà
Lạc Hồng nòi giống sanh ra Kỳ Tài.
Nói về Hùng Vương thứ 6, Hùng Huy Vương, (Pháp Hải Lang) 961 đến 893, trước Công Nguyên. Gặp thời binh đao máu lửa nổi lên khắp Bắc Văn Lang, phần thì giặc nội loạn, nhiều bách tộc Bắc Văn Lang nổi lên đòi tự trị, tự xưng Vua, xưng Chúa, nổi lên chiếm lĩnh từng vùng, làm đau đầu cho triều đình. Nhất là Hùng Huy Vương, ăn không ngon ngủ không yên, ra sức dẹp yên nội loạn nhưng không được, trở thành cảnh nồi da nấu thịt, Bách Việt Bắc Văn Lang tàn sát lẫn nhau, Đây là cảnh đầu tiên xảy ra trên đất nước Bắc Văn Lang, nguyên nhân là bởi hấp thụ nền văn hóa phương Bắc, đi theo chiều hướng của phương Bắc, nổi lên đòi tự trị chia ra nhiều nước nhỏ, không ai chịu dưới quyền ai, dẫn đến thôn tính lẫn nhau, trở thành cảnh Bách Việt nồi da nấu thịt, dân chúng đồ thán khốn khổ vô cùng, cảnh chết chóc xảy ra hằng ngày, lọt vào âm mưu của nhiều thế lực phương Bắc, chờ cho Bắc Văn Lang suy yếu là chúng đưa quân xâm lược. Và điều đó cũng đã đến.
Hùng Huy Vương, đã lấy làm đau đầu cho tình cảnh nội loạn Bắc Văn Lang chưa giải quyết xong, thời quân Ân, quân Hồ, quân Hung Nô, đã tràn qua xâm lược. Với thế mạnh của ngoại xâm tràn qua Bắc Văn Lang như nước lở, tiêu diệt sạch những ông Vua Việt mới nổi lên đòi tự trị, đây là điều đáng mừng cho nước Văn Lang, nhất là Hùng Huy Vương. Nhưng quân xâm lược không chỉ chiếm lấy Bắc Văn Lang, mà muốn nuốt trọn nước Văn Lang, một thứ giặc vô cùng đáng sợ, lại hết sức tàn bạo, chúng đi đến đâu thời dân Văn Lang trở thành nô lệ thảm khốc đến đó, chúng vơ vét sạch chẳng chừa một thứ gì, cảnh sợ hãi làm cho dân Văn Lang ăn ngủ không yên.
Nước non binh lửa dậy khắp nơi
Dân chúng khổ sai hận ngập trời
Móng vuốt sói lang loài ác quỷ
Xốm làng thê thảm chúng nuốt xơi.
Hùng Huy Vương, đưa quân chống trả nhưng đều thất bại, hết Tướng tài, bằng ra cáo thị cầu hiền tài khắp đất nước ai có tài thời ra cứu nước, sẽ được phong Quan Chức lớn, không ít người ra cứu nước nhưng tất cả đều đi vào thất bại. Tin thất trận dồn dập báo về Triều Đình, làm Hùng Huy Vương càng thêm lo lắng, lập đàn cầu Trời, cầu Tổ ngày đêm không dứt.
Thỉnh thoảng nàng mây tự ngẩn ngơ
Quê hương binh lửa tự bao giờ
Khắp nơi tràn ngập mùi chết chóc
Xốm làng vắng ngắt cảnh xác xơ
Hồn nghe rét buốt luồn trong gió
Quê gầy, làng úa, xốm héo khô
Nước non tan tóc quân giặc xéo
Tràn ngập hung tin nát cơ đồ.
Ngày nào cũng vậy Triều Thần đi dự họp đầy đủ, Quan Văn Quan Võ đủ mặt, lúc nào cũng bàn kế sách chống giặc Ân, có lẽ các Quan Văn Võ cũng đã hết mưu kế, nên mấy ngày nay không ai đưa ra kế sách gì mới.
Hùng Huy Vương lấy làm buồn phiền, nhưng rồi cũng phải hỏi:
Các Quan Văn Võ có kế sách gì mới không?
Các Quan chỉ biết im hơi lặng tiếng. Khi ấy có một vị Quan Lạc Thư chuyên coi về sổ sách, bước ra tâu rằng:
Bẩm Quốc Vương, Bệ Hạ. Thần nghe ở Huyện Tiên Du có một cậu em tên là GIÓNG, nói sẽ đi dẹp giặc Ân, theo Thần nghĩ Quốc Vương Bệ Hạ nên cho mời em bé ấy đến ban cho ấn lệnh đi chống giặc Ân.
Triều Thần nghe Quan Lạc Thư tấu trình như vậy thời cười ô lên. Hùng Huy Vương hỏi:
Các khanh cười chuyện gì?
Các Quan trả lời:
Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ. Quan Lạc Thư nghĩ giặc Ân toàn là trẻ con chắc, nên mới đề cử chuyện lạ đời như vậy. Tài giỏi như Nguyên Dực, Nguyên Minh, như Cao Sơn, Cao Hải đành phải thất trận, xin thêm 20 vạn quân nữa may ra mới chống trả lại ngăn bước tiến quân Ân. huống chi chỉ là một trẻ con, lời đồn nầy chỉ là khích lệ tinh thần chiến đấu chống ngoại xâm mà thôi, xin Bệ Hạ minh xét.
Hùng Huy Vương nghe các Quan tâu cũng có lý, ý định cho qua không bàn tới nữa. Bỗng có một vị Quan Lạc Hầu lên tiếng:
Bẩm Quốc Vương, Bệ Hạ. Theo Hạ Thần nghĩ lời Quan Lạc Thư cũng có lý, lúc này là lúc cần người tài ra giúp nước, dù người đó là ai, bà già, trẻ con, người dân bình thường mà nổi tiếng như vậy, thời cũng nên xem xét, thực hư. Hạ Thần sẽ đảm nhiệm việc nầy tới làng Đổng xóm Gióng để xem hư thực ra làm sao.
Thế là Vua Hùng giao nhiệm vụ cho Quan Lạc Hầu Thượng Thư. Đây nói về Quan Lạc Hầu Thượng Thư, đến Huyện Tiên Tu nghe dân chúng đồn ầm khắp nơi, Gióng là người Trời có khác ăn hoài mà chẳng thấy no chỉ trong vòng ba ngày Gióng cao lớn một cách kỳ lạ. Quan Lạc Hầu Thượng Thư đi gần đến làng Gióng thời thấy dân chúng kẻ khiêng gạo người khiêng cà, tới xóm Gióng tấp nập. Quan địa phương Lạc Điền, nghe có Quan Thượng Thư từ Triều Đình đến, liền tiếp đón tử tế, hành lễ xong.
Quan Lạc Điền hỏi:
Bẩm Quan trên Quan trên đến làng, xóm nghèo khổ nầy chẳng hay có chuyện gì?
Quan Lạc Hầu Thượng Thư nói:
Ở đây có chuyện Thánh Gióng thật sao?
Bẩm Quan lớn:
Quả là đúng như vậy, Thánh Gióng chính là Ông Đổng Khổng Lồ đầu thai, Ông ăn dữ lắm có lẽ Ông ăn hết sạch lúa gạo dân chúng mất.
Quan Thượng Thư càng nghe càng kinh khiếp, sau đó Quan làng Lạc Điền, dẫn Quan Lạc Hầu Thượng Thư đến gặp Gióng, khi ấy Gióng không phải là trẻ con, mà là một thiếu niên. Quan Thượng Thư vừa đến chứng kiến thấy Gióng vừa ăn hết mấy chảo cơm, thời quả lời đồn không sai. Gióng nghe Quan làng giới thiệu vị Quan mới đến là Quan Lạc Hầu Thượng Thư, vị Quan lớn thuộc hàng bậc nhất bậc nhì trong Triều, ai nấy nghe xong cũng đều kinh hãi, Gióng như không nghe lời giới thiệu đó, chỉ thi lễ mời vị Quan Thượng Thư ngồi, vị Quan Thượng Thư không dám khi dễ đáp lễ rồi cùng ngồi. Vị Quan nóng lòng không chờ đợi lâu lên tiếng hỏi, hỏi tới đâu Gióng trả lời thông suốt đến đó, vị Quan đến giờ nầy mới thật sự kinh hãi, liền vái lạy Gióng, cầu xin Gióng hãy cứu lấy nước non.
Thánh Gióng nói:
Ta lâm phàm xuống trần là để cứu nước cứu non trả lại sự bình yên cho dân chúng, nhưng ta có những yêu cầu Triều Đình phải chu cấp cho thật đầy đủ.
Quan Thượng Thư nói:
Thánh yêu cầu gì, Thần về sẽ tâu lên Quốc Vương.
Gióng nói:
Cấp cho ta thật nhiều lương thực, nuôi đủ mười vạn quân trong một tháng, vận chuyển đến đây mười tấn thép, mười tấn sắt, một nghìn thợ rèn giỏi, năm nghìn lượng vàng, một nghìn con ngựa chiến, nghìn cung tên tốt, hàng vạn mũi tên. Nhớ là sắt, thép, vàng, không thiếu một cân, thợ rèn không thiếu một người, ngựa phải đủ không thiếu một con, cung, tên, nhất nhất đều đúng như vậy, phải đúng là trong vòng nửa tháng tất cả đều có đủ không thiếu một món nào, thời ta sẽ đánh tan giặc Ân, trong vòng nửa tháng.
Vị Quan Thượng Thư nghe Gióng nói tới đâu lấy làm kinh hãi đến đó, liền từ biệt Gióng cấp tốc về Kinh Đô trình tấu lên Vua Hùng.
Sau có thơ rằng:
Quan về Quan nói với Vua
Xuất kho mười tấn thép nguyên ta dùng
Chọn cho nghìn vị thợ rèn
Đưa thêm mười tấn sắt, đồng, cho mau
Kim loại sạch đã luyện tôi
Đưa thêm nửa tấn vàng nguyên ta dùng
Cấp cho lương thực thật nhiều
Để ta no bụng tiến hành diệt Ân
Ngựa nghìn con, vạn vạn cung tên
Để cho chiến sĩ xông lên diệt thù
Hãy về tâu với Triều Đình
Không nên để thiếu dù là nửa cân
Trong vòng một tháng không hơn
Thời ta đánh bại quân Ân tơi bời
Giặc Ân khiếp vía kinh hồn
Hết mong xâm lấn cõi bờ Văn Lang
Nước non trở lại bình an
Thái bình thịnh vượng giàu sang yên lành
Mau mau không được trễ chầy
Trong vòng nửa tháng phải thời có ngay.
Nói về Lạc Hầu Quan Thượng Thư lấy làm vui mừng vì chứng bao chuyện lạ của Gióng, bằng nhanh chóng trở về sáng ngày cho kịp buổi Chầu Vua. Hôm nay là ngày đẹp trời không còn u ám như ngày hôm qua, ánh bình minh rực rỡ như báo hiệu nước non sắp yên bình trở lại, các Quan đi chầu rất sớm.
Trên bệ Rồng Hùng Huy Vương nói:
Trẫm thấy hôm nay khỏe khoắn lạ kỳ có lẽ là điềm lành xuất hiện chăng.
Các Quan cũng đồng thanh nói:
Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ chúng Thần cũng cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng, không hiểu là có điềm lành gì.
Hùng Huy Vương kiểm lại các Quan thời chỉ thiếu Quan Lạc Hầu Thượng Thư vì còn bận công tác đi đến làng Gióng chưa về. Hùng Huy Vương nói:
Không hiểu ở làng Gióng hư thật thế nào, Trẫm nóng lòng quá.
Hùng Huy Vương vừa dứt lời thời thấy Quan Lạc Hầu Thượng Thư bước vào. Hùng Huy Vương lấy làm mừng nói rằng:
Quan Thượng Thư quả thật Linh Thiên, vừa nhắc đến thời có ngay.
Các Quan vô cùng hồi hộp chờ lời xác minh của Quan Thượng Thư về đứa trẻ nơi làng Đổng xóm Gióng, với vẻ điềm nhiên của Quan Lạc Hầu Thượng Thư làm cho các Quan càng thêm sốt ruột.
Hùng Huy Vương nói:
Quan Thượng Thư sao bữa nay ông tấu trình chậm thế.
Đến lúc nầy Quan Thượng Thư mới tấu trình rằng:
Muôn Tâu Quốc Vương Bệ Hạ, quả xốm Gióng đã xuất hiện Thánh Gióng.
Cả Triều Đình ai nấy cũng đều ồ lên: Có Thánh Gióng xuất hiện thật sao?
Quan Thượng Thư nói:
Nhưng sự yêu cầu Thánh Gióng không phải là nhỏ.
Hùng Huy Vương nói:
Thánh Gióng cần bao nhiêu vạn quân, bốn mươi vạn hay năm mươi vạn.
Muôn Tâu Quốc Vương Bệ Hạ:
Thánh Gióng không yêu cầu thứ đó.
Nghe lời nói của Quan Thượng Thư, không chỉ các Quan Văn Võ, mà ngay cả Hùng Huy Vương cũng bất ngờ phải nói là vô cùng kinh ngạc.
Hùng Huy Vương ngơ ngác:
Thánh Gióng yêu cầu thứ gì? Quá mức của triều đình ta chăng?
Quan Thượng Thư nói:
Có thể nói là quá mức, nếu không quyết tâm thời khó mà thực hiện được.
Hùng Huy Vương nóng ruột nói:
Khanh cứ nói đại ra triều đình ta có đáp ứng được không.
Đến lúc nầy Quan Lạc Hầu Thượng Thư mới đi vào vấn đề chính, kể lại tất cả những gì tai nghe mắt thấy, ai nấy cũng lấy làm kinh dị cho sự xuất hiện một Đấng Trời sanh Thánh Đế nầy, cứu lấy vận mệnh nước Văn Lang.
Bẩm Quốc Vương Bệ Hạ, Thánh Gióng yêu cầu:
Cấp đủ lương thực nuôi một vạn quân trong vòng một tháng. Một nghìn con ngựa chiến, một nghìn chiếc cung loại tốt, năm vạn mũi tên, nửa tấn vàng.
Nói đến đây Quan Thượng Thư dừng lại. Hùng Huy Vương nghe xong thời cười nói:
Những thứ yêu cầu đấy đối với nước Văn Lang ta thời chỉ là hạt cát, yêu cầu như thế thời có gì là khó đâu.
Muôn tâu Quốc Vương:
Nếu chúng ta không quyết tâm thời khó mà được sự yêu cầu đó chỉ trong vòng nửa tháng.
Hùng Huy Vương hỏi:
Sự yêu cầu đó là gì? Ông hãy nói mau cho ta nghe.
Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ:
Thánh Gióng yêu cầu Bệ Hạ xuất mười tấn thép, bảy tấn sắt, ba tấn đồng, với một nghìn thợ rèn giỏi, cấp tốc đến làng Đổng, chỉ trong vòng nửa tháng phải có, không được chậm trễ, thép, sắt, đồng, vàng, không được thiếu một cân.
Hùng Huy Vương nghe sự yêu cầu nầy liền ngớ người ra, vì vận nước như dầu sôi lửa bỏng, phải thực hiện cho bằng được, bằng cho mời quan giữ kho thép đến hỏi:
Còn được bao nhiêu?
Kho thép là kho báu vật Quốc Gia, dùng để chế tạo ra các vũ khí sắc bén, không có thép nước nào sánh lại được thép nước Văn Lang.
Quan giữ kho tâu:
Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ, trong kho chỉ còn tám tấm.
Hùng Huy Vương liền tức tốc cho thu hồi thép khắp đất nước, chọn một nghìn thợ rèn giỏi cùng khắp đất nước, tất cả đều chuyển đến làng Đổng, trong vòng mười ngày, nếu chậm trễ chém đầu. Thế là các quan mỗi người một việc, ra sức ngày đêm không nghĩ và tất cả đều hoàn thành sau mười ngày.
PHẦN 25: THAO LUYỆN BINH MÃ
Lúc bấy giờ làng Gióng người ta như hội kẻ tới người lui tấp nập, GIÓNG giờ đây tuy mặt còn non trẻ, nhưng cao lớn như người thanh niên vạm vỡ oai phong lẫm liệt, ra sức chỉ huy một nghìn thợ rèn chế tạo rèn đúc áo giáp thép, mão thép, áo giáp ngựa thép, roi thép, áo giáp sắc, áo giáp đồng, áo giáp ngựa sắt, áo giáp ngựa đồng.
Nói về nghìn thợ rèn ngày đêm tốc lực, rèn đúc mài dũa chế tạo ra bộ áo giáp người, giáp ngựa, như vảy con tê tê, tiếng búa đập chan chát, dậy làng dậy xóm dậy núi dậy non, tiếng mài dũa rào rào nghe mà kinh mà khiếp.
Tiếng rèn đúc âm vang mấy cõi
Tiếng rào rào mài dũa kinh thiên
Ầm ầm dội đến quân Ân
Làm cho khiếp vía hồn kinh hãi hùng.
Đây nói về khắp Bộ Vũ Ninh, cũng như các Bộ các Châu, các Quận, các Huyện xa gần lân cận Bộ Vũ Ninh, nghe tin Thánh Gióng xuất hiện chuẩn bị xuất quân đi đánh giặc Ân, thời khắp nơi, nhân tài kéo đến lũ lượt xin gia nhập đội quân của Gióng. Nói về ở Hội Xá Gia Ninh, có nhiều đoàn trẻ chăn trâu chân bò, chúng thường chơi nhau lập trận, rước cờ bông lau, đánh trống da ếch số đông lên đến cả trăm, gõ thanh tre, chơi tập trận.
Nhìn bọn trẻ chơi nhau tập trận
Trống dập dồn quân tiến quân lui
Gõ thanh tre bao vây quân dịch
Tiếng xung phong rền núi dậy non
Cỡi trâu cát bụi tung bay
Cỡi bò tay phất cờ lau vù vù
Reo hò trống dậy trống dồn
Thanh tre rôm rả vang lừng đồng quê.
Tiếng la hét của bọn trẻ dậy non dậy núi, quân Ân thua rồi, quân Ân thua rồi. Cùng lúc ấy nhiều đoàn trẻ chăn trâu chăn bò, xa gần Hội Xá kéo đến số đông lên đến cả trăm, chúng hội nhau gia nhập đoàn quân của Gióng. Thế là hơn mấy trăm trẻ chăn trâu chăn bò kéo đến làng Gióng xin gia nhập đội quân của Gióng. Gióng chấp nhận, và cho luyện tập binh mã, mỗi lần GIÓNG phất cờ điều khiển trận pháp, tức thời đàng trẻ chăn trâu, chăn bò lớn lên một cấp, từ thiếu niên vụt lớn thành thanh niên tráng sĩ, thịt bắp vai u sức mạnh vô địch. Gióng lúc nầy tuy mặt vẫn còn trẻ con, đã biến thành một tráng sĩ, mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Gióng cho người khiêng giáp người giáp ngựa, gươm đao giáo mác đến, trang bị cho đội quân chăn trâu, chăn bò, đã biến thành đội quân dũng sĩ. Đội quân dũng sĩ, trang bị ngựa mặt giáp sắt, giáp đồng, người mặt giáp sắt, giáp đồng, với thanh đại đao trong tay sáng ngời, các dũng sĩ đồng lên ngựa diễn trận, dân chúng xem coi kinh hoàng khiếp vía, ánh đao tuôn ra lạnh cả người, dân chúng la lên ngựa sắt, người sắt, khiếp quá, khiếp quá, đoàn quân ngựa sắt lao tới lao lui nhanh như cuồng phong vũ bảo. Dân chúng hò reo đội quân bách chiến bách thắng, đội quân bách chiến bách thắng.
Nói về làng Môi, làng Mòi, những trai tráng khỏe mạnh cũng xin gia nhập đội quân Gióng, trong đó có ba anh em nhà Ba Chạ, có sức khỏe lạ đời, một tay cầm lấy ba trăm cân như cầm lấy một hòn đá nhỏ.
Nói về một số người thường câu cá trên các dòng sông nghe tin GIÓNG chuẩn bị xuất quân đánh giặc Ân, liền kéo đến xin gia nhập quân binh của Gióng. Những người thợ săn khắp nơi xa gần cũng thế, kéo đến xin gia nhập quân binh của Gióng.
Đây nói về làng Y Na, có một người đàn bà ăn ở phúc Đức, ba đời đều chữa bệnh cho dân, khắp nơi xa gần ai cũng mến phục, người đàn ấy tên là Cao Thị.
Một hôm có một cái cầu vồng năm sắc hiện ra trên bầu trời, và nhắm thẳng người đàn bà sa xuống, bà Cao Thị liền thấy trong mình khác lạ. Từ đó bà mang thai, đến ngày sanh nở bà sanh ra một bọc, sanh ra năm người con trai. Năm anh em khi đến 12 tuổi, bà Cao Thị qua đời, nhưng nhờ gia tộc bà Cao Thị cũng khá giả nên năm người con không lấy gì làm khổ nhọc, năm anh em cùng trong một bọc mau lớn lạ đời nầy tài năng vô cùng, một người tên Kim, một người tên Mộc, một người tên Thủy, một người tên Hỏa, một người tên Thổ.
Hùng Huy Vương ra cáo cầu hiền khắp đất nước, năm anh em xé bản cầu hiền, tức thời Quan dán bản cáo thị báo cho Vua Hùng biết. Hùng Huy Vương cho người đến khảo sát tài năng, thấy năm anh em trong một bọc sanh ra, quả là tài năng vô cùng võ nghệ cao cường thần thông quảng đại, bằng dâng tấu sớ lên Vua Hùng, phong cho Quan tước, cũng như theo sự yêu cầu của năm anh em, nhà Cao Thị, là gia nhập vào đội quân của Gióng. Các bô lão trong làng Y Na lại tiến cử 35 người con trai khỏe mạnh tài giỏi nhất làng theo năm anh em Ngũ Tài. Cả làng mổ trâu, mổ bò, mổ dê, mổ lợn, gà vịt tế lễ trời đất, khao thưởng năm anh em Ngũ Tài, cùng 35 người con trai khỏe mạnh, lên đường đánh giặc Ân sát nhập với quân Gióng nơi làng Đổng.
PHẦN 26: HỘI TỤ TINH HOA
Khi Gióng trở về làng Đổng tuyên bố đánh giặc Ân, những người tin Gióng theo Gióng đầu tiên, là ba vị Kỳ nhân tên là ông Trấn, ông Trâu, ông Bạch Sam ở núi Tiên, theo sự yêu cầu của Gióng, một nghìn thợ rèn dốc sức ngày đêm không nghĩ hơn nửa tháng thì hoàn thành đến lúc nầy GIÓNG mình cao hơn trượng cao lớn như người Khổng Lồ. Gióng hú lên một tiếng làm chấn động núi non rừng thẳm, thời từ xa xôi có tiếng ngựa hí đáp lại, trên không trung liền xuất hiện một con ngựa Thần bay tới, to lớn gấp mười lần con ngựa thường, to lớn hơn một con voi to, ngựa đáp chân xuống đất làm rung rinh nhà cửa, dân làng kinh hãi khiếp sợ. Hỡi dân làng giờ xuất trận cũng gần đến dân làng hãy cho quân binh ăn thật no. Riêng nấu cho ta đầy bảy nong cơm, cà muối ba nong.
Sau có thơ rằng.
Bảy nong cơm, ba nong cà
Uống một hơi nước cạn đà khúc sông.
Nói về các thợ rèn chỉ rèn đúc lắp ráp theo lời chỉ bảo của Gióng, chớ không động đậy gì nổi những đồ của Gióng dùng, chỉ cần roi thép của Gióng cũng nặng hơn hai tấn dài to vót như một cây tre, mấy chục thước, không có quân binh nào khiêng cho nổi. Gióng bước đến nhiều mảnh áo giáp ngựa, mỗi mảnh giáp nặng gần cả tấn, thế mà Gióng xách lên nhẹ như không, như xách con gà con, ai nhìn thấy cũng phải kinh hồn bạt vía. Gióng ráp xong các mảnh giáp lên mình ngựa xong, biến con ngựa Thần thành con ngựa thép sắt, tức thời hơi thép lành lạnh tuôn ra đến khiếp người. Gióng mặt giáp xong liền biến thành con người thép sắt khổng lồ, Gióng bước tới cây roi thép dài to vót như cây tre, cuối người xuống cầm lên một cách nhẹ nhàng, như cầm một cây roi tre chăn bò, với một sức mạnh chưa từng thấy bao giờ, Gióng múa roi một cái tức thời cuồng phong nổi dậy ầm ầm, cát bay đá chạy, dân chúng nhìn thấy sức mạnh Thần Kỳ của Gióng, có người sợ muốn xỉu, dân chúng nhìn Gióng cỡi lên con ngựa thép, ánh thép sáng ngời ngời tay cầm roi thép, phóng lên yên ngựa tức thời đất đai liền sụt lún xuống, con ngựa dẫm chân làm rung rinh nhà cửa, dân chúng có người sợ đến muốn chết ngất, vì quá khiếp. Gióng vỗ vào lưng ngựa, tức thời con ngựa phun ra lửa sấm sét nổi lên. Gióng phi ngựa một vòng, ngựa phi tới đâu, thời thành ao tới đó, kình phong tuông ra ầm ầm làm cho cây cối ngã đổ ai nấy đều kinh hồn bạt vía. Gióng phi ngựa trở về chỗ cũ, bọn trẻ thấy ngựa Gióng vẫn còn chỗ trống hở, liền lấy bông lau dắc vào cho kín. Gióng chưa xuất quân hình như chờ đợi ai đó, khi ấy dân làng nghe tiếng hổ gầm, voi hú, dậy trời như chờ Gióng xuất trận là lao theo. Bỗng dân làng thấy mấy người nông dân làm ruộng, mấy người nông dân trồng tre, đến gia nhập đạo quân, Gióng nói tất cả đều đến đầy đủ rồi, chuẩn bị xuất quân Gióng liền vỗ vào hông ngựa con ngựa hí lên rung trời chuyển đất, mồm phun lửa rực đỏ cả bầu trời.
Gióng chỉ roi về hướng Bắc thét lớn:
Tiến quân.
Tức thì đoàn quân hỗn hợp, cuồn cuộn lao về hướng Bắc. Dân chúng thấy quân Gióng đi nhanh như cơn bão vượt qua núi, không cần đường mòn, vượt qua sông không cần thuyền bè. Sau có thơ rằng:
Quân Gióng là quân nhà Trời
Vượt qua sông núi lạ đời như không
Quân binh cuồn cuộn bão dông
Tiến về phương Bắc quyết tâm diệt thù.
PHẦN 27: DIỆT THÙ
Lại nói về Nguyên Minh, bị quân Ân phá trận ngũ hành đánh bại, quân binh chết vô số kể, kéo tàn quân chạy về Vân Châu, tránh sự truy sát của quân Ân. Cánh quân Cao Hải bị quân Hung Nô đánh bại cũng chạy về Vân Châu, Nguyên Minh, Cao Hải gặp nhau trong tình thế vô cùng bi đát, bại trận thê thảm, than thở mãi không thôi, nhưng sau đó lấy lại khí thế cũng cố lại lực lượng, cố thủ Vân Châu quyết một còn một mất với chúng, Nguyên Minh viết thư báo cáo tình hình quân địch khó mà chống cự cho lại trình lên Hùng Huy Vương, xin viện binh, chờ cơ hội đánh trả, cũng như ngăn bước tiến quân Ân không cho tiếng vào Trung Văn Lang.
Nội dung thư như sau:
Quân giặc nhiều vô số
Tướng giặc lại tài cao
Quân binh như ma quỷ
Khó thắng biết là bao
Quân binh đang cố thủ
Địa phận tỉnh Vân Châu
Viện binh như cứu hỏa
Mới ngăn nổi giặc Ân
Tiến vào Trung Văn Lang
Xin Quốc Vương minh xét.
Nguyên Minh, cùng Cao Hải, đang bàn kế sách ngăn chặn quân Ân tiến vào Trung Văn Lang, và cho người liên lạc với Nguyên Dực.
Thời có quân binh vào báo:
Bẩm chủ soái quân Thánh Gióng sắp đến Vân Châu rồi.
Nguyên Minh nói:
Mau đến như thế sao?
Cao Hải nói:
Nghe nói quân Gióng là quân nhà Trời, không phải là quân Triều Đình, ta mau gia nhập vào đội quân của Gióng, tiến đánh quân Ân.
Anh em cùng ra trận
Hiếu trung nổi tiếng nhà
Quyết một phen tử chiến
Vì dân chết cũng là
Diệt thù quân cướp nước
Quyết tử tiến xông pha
Rồng Tiên niềm bất khuất
Nối gót chí ông cha
Cứu nước cứu non kể chi là
Tình riêng gói lại chí xông pha
Một mất một còn quân cướp nước
Trải lòng trung hiếu diệt yêu ma.
Nguyên Minh, Cao Hải thống lãnh gần mười vạn quân đón quân Gióng đến gia nhập. Nguyên Minh, Cao Hải nghe tiếng quân binh duy chuyển ầm ầm, nghe cuồng phong ù ù thời lấy làm kinh hãi, loáng một cái quân Gióng đã tới nơi. Nguyên Minh, Cao Hải vô cùng kinh hãi, vì thấy một đạo quân người sắt, ngựa sắt, đạo quân thiết giáp đi sau, hơi thép tuôn ra lạnh cả người.
Nguyên Minh, Cao Hải, tới lễ lạy Thánh Gióng, gia nhập gần mười vạn quân vào quân Gióng tiến đánh giặc Hồ ở Kiến Giao Châu. GIÓNG vỗ vào lưng ngựa chỉ roi về hướng Kiến Giao Châu tức thời ngựa Thần hí lên rung trời chuyển đất, đoàn quân Gióng lao đi như cơn bão lốc. Nguyên Minh, Cao Hải chỉ còn biết thúc năm nghìn kỵ binh lao theo đoàn quân của gióng mà thôi, còn tất cả thời lẽo đẽo theo sau, đoàn quân loáng một cái là mất hút.
Đây nói về Hồ Nghi Vương quyết lấy thành Kiến Châu cho bằng được chiếm trọn Tây Bắc Văn Lang, với hơn 20 vạn quân, Hồ Nghi Vương chỉ cần khôn khéo là chiếm được ngay, nhưng Châu Tiên con của Quan Trung chính Châu Ân quá lợi hại, lại có một vị Tướng vô cùng tài đó là Cao Khang nên Hồ Nghi Vương chưa thể chiếm thành ngay được, và rồi Hồ Nghi Vương cũng tìm ra kế để phá thành.
Trận chiến bắt đầu mở màng, Hồ Nghi Vương dùng độn tẩm dầu bắn vào thành, rồi bắn lửa vào đốt cháy, hỏa công đánh trước, bộ binh leo tường đánh sau, xạ binh bắn yểm trợ, còn một đạo quân khác mượn thế liên hoàn ròng rọc công phá cửa thành, Thành Kiến Châu chỉ còn chờ chết. Tiến reo hò quân Hồ dậy trời dậy đất.
Hồ Nghi Quân kêu gọi đầu hàng lần cuối:
Đầu hàng thời còn mạng sống, chống lại thời chết không còn một mạng.
Châu Tiên quát:
Con quỉ Hồ Ly kia, con cháu Tiên Rồng thà chết quyết không chịu đầu hàng.
Hồ Nghi Vương trợn mắt quát:
Hãy sang bằng Kiến Châu cho ta.
Tức thời tiếng tù thổi lên rền trời rền đất, quân Hồ chuẩn bị tấn công. Thời bỗng nghe đất trời rung chuyển, quân Hồ bỗng thấy người sắt, ngựa sắt bỗng xuất hiện lao tới đánh xối xả, tới tấp vào quân Hồ. Quân Hồ bị đánh trúng văng đi tứ phía cả người cả ngựa nát như tương. Hồ Nghi Vương kinh hồn bạt vía thấy ngựa sắt Khổng Lồ lao tới phun lửa đốt quân Ân cháy đen, người sắt Khổng Lồ mỗi lần múa roi thép sắt lên là mỗi lần quân Hồ toi mạng cả trăm lớp nát như tương lớp bay như rác. Hổ, Voi, Sư Tử, lao tới xé xác, cảnh tượng xảy ra khiếp vía kinh hồn. Hồ Nghi Vương khiếp quá, ra lệnh cho quân binh bắn tên xối xả vào ngựa sắt, người sắt, nhưng nào có ăn thua gì, ngựa sắt người sắt cứ lao tới, đánh quân Hồ ngã rạp lớp lớp đạp nhàu quân Hồ nát như tương. Hồ Nghi Vương hãi hùng hóa phép bay lên không chạy trốn, nhưng nào có kịp Thánh Gióng chỉ roi lên không một cái, một tia hào quang bắn lên Hồ Nghi Vương liền tan xương nát thịt, 20 vạn quân Hồ chỉ trong chốc lát, tiêu tan thây nằm la liệt.
Sau có thơ rằng:
Nghe động đất đùng đùng ập tới
Nghe cuồng phong bão tố đến nơi
Ầm ầm vó ngựa khiếp kinh
Ầm ầm roi sắt rung rinh đất trời
Quân hỗn hợp Thánh Thần xuất thế
Càn quét nhanh khủng khiếp kinh hồn
Quân Hồ bị đánh tơi bời
Lớp thời nát thịt, lớp thời cháy đen
Lớp thời bị cọp nuốt ăn
Kinh hồn bạt vía hết phương sống còn.
Lại nói về, Quan Trung Chính, Châu An, Châu Tiên, Cao Khang, quyết tử chiến với quân Hồ cho đến phút cuối, bỗng nhìn thấy xa xa ở phương Nam xuất hiện một đạo quân, không biết là quân địch hay quân ta, chỉ loáng một cái đoàn quân tốc hành đã đến nơi.
Châu Tiên la lớn:
Quân người sắt.
Cao Khang, Châu An thấy đoàn quân người sắt lao vào 20 vạn quân Hồ như vào chỗ không người, giống như hàng nghìn cái chổi sằm quét rác, quân Hồ bị quét bay lên tứ tung, trông thấy mà kinh hồn bạt vía, nhất là người sắt Khổng Lồ, ngựa sắt Khổng Lồ, tên, lao, giáo, kiếm, lao tới như mưa, nhưng người ngựa Khổng Lồ không hề hấn gì cả, ngựa phun lửa dữ đốt quân Hồ cháy đen cháy thui, cứ mỗi lần người sắt Khổng Lồ vung roi là cả trăm người tan xác.
Châu Tiên, đứng trên thành la lớn:
Thánh Gióng Thánh Gióng, kìa cờ đề Thánh Gióng, quân nhà Trời đã xuất hiện.
Quân Trời kinh khiếp làm sao
Tướng Trời xuống thế cứu dân sống còn
Cứu non cứu nước trường tồn
Đánh tan yêu quỹ hết còn xâm lăng
Kinh hồn bạt vía từ đây
Văn Lang có chủ giặc bây đừng hòng
Xâm lăng không có ngày về
Thây phơi chật đất ê hề thây phơi
Quân Hồ bị đánh tả tơi
Làm phân cho đất ôi thôi còn gì
Đây là bài học nhớ đời
Cho quân xâm lược nhớ thời nhớ ghi.
Châu Tiên nhìn thấy cờ chủ soái Nguyên Minh nói:
Cha nhìn có quân chủ lực Văn Lang nữa kìa.
Thánh Gióng nói tiếng vang như sấm:
Mau mở cổng thành đem quân truy sát quân Hồ.
Nói xong Thánh Gióng chỉ roi về Ninh Châu tiến, thế là đoàn quân Gióng như cơn bão nổi lên ầm ầm lao đi, loáng cái mất dạng, Châu An nhìn theo khiếp vía: Quân Trời có khác.
PHẦN 28: TIÊU DIỆT QUÂN ÂN
Đây nói về Nguyên Dực thua trận kéo tàn quân chạy về thành Ninh Châu, cố thủ, quân Ân kéo đến bao vây, nhưng không tấn công liền, chờ cho quân binh trong thành Ninh Châu kiệt sức vì đói mới ra tấn công.
Than ôi non nước nạn luôn luôn
Cũng bởi chúng dân lạc Cội Nguồn
Âu bởi số Trời nên đành thế
Đông tàn xuân đến nạn qua truông
Còn lòng trung hiếu còn non nước
Đựng dậy hồn thiên, dậy anh linh
Chờ cơ, chờ vận, chờ trời sáng
Rồng Tiên phất phới, rạng anh minh
Độc lập tự do tung đôi cánh
Yên bình hạnh phúc trải xuân Thiên.
Đây nói về Nguyên Dực, bị Sát Sát quân Ân đánh bại rút tàn quân chạy về thành Ninh Châu, đóng cổng cố thủ trong thành, không bao lâu thời quân Ân kéo đến bao vây, có trên 25 vạn quân. Nguyên Dực, Dương Điền, Hầu Thái Công, Lạc Đại Vương, Bạch Tướng Quân, cùng nhiều Tướng Lĩnh khác nữa ở trên thành nhìn thấy quân Ân đông như vậy khó mà đánh cho lại. Hơn nữa Sát Sát thần thông pháp thuật vô biên, thành Ninh Châu quân binh chỉ hơn sáu vạn, nhưng nếu bị bao vây hơn nửa tháng sẽ dẫn đến chết đói, quân Ân không đánh cũng thua. Quân Ân bao vây hơn mười ngày rồi, chỉ cần thêm năm ngày nữa sẽ dẫn đến quân binh kiệt sức vì đói. Nguyên Dực, Hầu Thái Công, Lạc Đại Vương lấy làm lo lắng vô cùng.
Bạch Tướng Quân nói:
Trước sau gì cũng chết, thay gì lúc còn đang no, đang đêm mở cổng thành ra quyết chiến với chúng một trận chết cũng vui sướng.
Dương Điền nói:
Bạch Tướng Quân nói phải lắm, chết đói sao cho bằng đánh với một trận chết no cũng vui.
Nguyên Dực nghe cũng có lý nói:
Thôi thì tận trung Báo Quốc vậy.
Được lệnh mở cổng thành tấn công quân Ân, các Tướng bàn bạc sôi nổi và thống nhất:
Một giờ đêm nay là mở thành tấn công vào quân Ân tận trung Báo Quốc, coi như chúng ta ăn bữa cơm cuối cùng.
Bằng cho mổ bò mổ lợn, gà vịt khao đải quân binh, bữa ăn cuối cùng từ giã trần gian.
Một trận chiến lẫy lừng sông núi
Khí hùng anh có chết cũng vui
Tiên Rồng nòi giống uy linh
Sợ gì quân giặc ........ diệt thù
Nhìn dân chúng giặc dày giặc xéo
Cảnh ngựa trâu giặc chém giặc đâm
Làm cho máu chảy non sông
Quê hương binh lửa núi non hận thù
Hãy ........ chiến sĩ đồng bào
Đánh cho tan tác quân thù tác tan.
Nhìn trời về chiều ánh nắng đã ốm vàng hồng, không bao lâu nữa mặt Trời sẽ lặng về non Tây, các Tướng Lĩnh thấy tâm hồn khoan khoái nhẹ nhổm không còn nặng nề như mấy bữa trước đây.
Bỗng Bạch Tướng Quân la lên:
Xem kìa! Xem kìa! Chuyện gì thế? Quân Ân kéo binh đến nữa chăng?
Khói bụi mịt mù ở tận xa xa, loáng một cái đoàn quân đã lao tới gần quân Ân, tiếp theo đó là một trận chiến kinh hồn, quân Ân bị đánh bay lên như hốt đá mà ném bay lên tứ hướng nhà Trời, quân Ân kinh hoàng khiếp thi nhau chạy toán loạn.
Ngựa sắt dồn chân chuyển đất trời
Đạp nhầu quân giặc nát tả tơi
Ầm ầm roi sắt rền sông núi
Muôn vạn giặc Ân mạng tơi bời
Kinh hồn bạt vía quân cướp nước
Thịt xương tung tóe xác pháo rơi
Cuồng phong gào thét roi vun vút
Quét sạch xâm lăng giặc đi đời.
Các Tướng trên thành la lớn:
Người sắt, ngựa sắt, kìa người Khổng Lồ, tay múa roi lớp lớp quân Ân tan xương nát thịt bỏ mạng, ngựa sắt phun lửa đỏ rực bầu trời.
Lạc Đại Vương la lớn:
Cờ Thánh Gióng, quân binh nhà Trời.
Nguyên Dực cũng la lớn:
Kìa quân binh chủ lực Văn Lang cờ chủ soái Nguyên Minh phất phới.
Nguyên Dực như đứng tim nhìn sức mạnh của quân Gióng đánh quân Ân như đánh loài chuột. Đây nói về Sát Sát, đang hừng hực khí thế chiến thắng, thời nghe tiếng ầm ầm từ xa vọng lại, loáng một cái nghe quân Ân gào thét sợ hãi chạy toán loạn.
Sát Sát la lớn:
Chuyện gì thế? Chuyện gì thế?
Nói về Hồ Man Quân, Hồ Mị Hoa, nhìn thấy người sắt từ hướng Tây lao tới xơi sạch quân Hồ. Hồ Mị Hoa hóa phép giông tố nổi lên ầm ầm đánh vào quân người sắt. Không ngờ quân người sắt chẳng hề hấn gì, lao nhanh tới chém sạch quân Hồ. Hồ Mị Hoa sợ quá cỡi ngựa Thần phi lên không trốn chạy, nhưng không còn kịp nữa năm con ngựa sắt bay lên không bao vây, đồng loạt tấn công cả con ngựa Thần cùng Hồ Mị Hoa bị chém đứt ra nhiều mảnh. Quân Ân, quân Hồ nhìn thấy cảnh ấy chỉ còn biết dẫm đạp lên nhau bỏ chạy. Năm con ngựa sắt bay lên không giết chết Hồ Mị Hoa chính là năm anh em Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ.
Cùng lúc ấy Sát Sát thấy người sắt Khổng Lồ đánh quân Ân lớp lớp tơi tả, liền niệm chú phóng kiếm Thần lao tới giết chết người sắt Khổng Lồ. Gióng không hề sợ hãi chút nào kiếm Thần lao tới Gióng đưa roi đánh vào kiếm Thần một cái tức thời một tiếng nổ long trời, kiếm Thần nát ra từng mảnh vụn.
Sát Sát sợ quá la lớn:
Bắn chết người sắt Khổng Lồ đó cho ta.
Thế là hàng nghìn mũi tên bắn vào người sắt Khổng Lồ, nhưng nào có ăn thua gì. Gióng lao đến đâu quân Ân lớp lớp bỏ mạng đến đó. Sát Sát hóa phép liên miên, nào yêu tinh quỷ dữ hiện ra, cũng không làm gì được Gióng, bị Gióng múa roi đánh yêu tinh quỉ dữ khiếp hồn. Sát Sát hóa cuồng phong ầm ầm cũng không làm gì được Gióng. Sát Sát sợ quá phi ngựa lên không trốn chạy, không ngờ con ngựa sắt Khổng Lồ bay theo. Gióng đánh cho một roi cả người lẫn ngựa nát như tương.
Nguyên Dực cùng các Tướng Lĩnh trên thành Ninh Châu há hốc mồm mà nhìn, cứ tưởng như là một giấc chiêm bao. Chừng nghe nói:
Hãy mở cổng thành truy sát quân Ân chạy trốn, và cho người đem đồ ăn thức uống dâng lên cho đoàn quân của Gióng.
Người lên tiếng đó chính là Nguyên Minh em của Nguyên Dực. Nguyên Dực như tỉnh giấc mơ liền mở cổng thành cho quân đuổi theo truy sát quân Ân đang chạy trốn tứ hướng, 25 vạn quân Ân giờ đây chỉ là những đống thịt, những cái xác không hồn, la liệt chồng chất lên nhau, cuộc chiến kết thúc thần tốc như thế, không ai dám nghĩ tới, nói gì tận mắt chứng kiến.
PHẦN 29: QUÉT SẠCH QUÂN ÂN
Sử đời chép lại để coi
Xâm lược rốt cuộc chẳng qua lũ hề
Trò cười muôn ức vạn đời
Ra gì một lũ ngông cuồng xâm lăng.
Nói về quân Gióng sau khi quét sạch 25 vạn quân Ân, thời được Nguyên Dực, Dương Điền, Hầu Thái Công, Lạc Đại Vương, Bạch Tướng Quân, đón rước tất cả vào thành vì trời đã tối, các Quan Tướng đều đến lạy Gióng. Lạc Đại Vương cho người dâng lên đồ ăn thức uống cho đoàn quân của Gióng, không ngờ đoàn quân của Gióng ăn mạnh quá, nốt sạch khẩu phần của hơn sáu vạn quân, chuẩn bị cho bữa cơm tối, bữa cơm cuối cùng cho trận chiến một giờ đêm. Nhất là Gióng ăn liền bảy nong cơm, ba nong cà muối, làm khiếp đảm những người chứng kiến. Quân Gióng ăn no nê rồi đánh một giấc ngủ.
Ông mặt trời đã thức dậy, ngày cuối cùng tiêu diệt giặc Ân. Tất cả quân binh thành Ninh Châu suốt đêm không ngủ vì chuẩn bị đồ ăn thứ uống cho đoàn quân của Gióng ăn sáng trước khi lên đường đánh giặc. Quân dân thành Ninh Châu lại phải chứng kiến quân Gióng ăn uống khủng khiếp, nhất là Gióng nuốt sạch mười nong cơm, năm nong cà.
Nguyên Dực giờ đây đã gia nhập vào đoàn quân của Gióng những kỵ binh giỏi nhất đi theo Gióng quét sạch quân thù xâm lược, còn tất cả binh lính đều ở lại thành Ninh Châu. Quân Gióng ăn uống no nê, chờ lệnh Gióng xuất phát. Gióng cầm roi leo lên lưng ngựa, roi Gióng vót nhọn dài mấy mươi thước to dài như cây tre lồng ngà, nặng hơn hai tấn. Gióng chỉ roi về hướng Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ hét lớn tiến quân, tức thời con ngựa Gióng hí lên vang động đất trời, mồm phun ra lửa dữ, dậm chân ầm ầm lao đi, quân Gióng lao theo ầm ầm như cơn bão, loáng cái đã mất dạng, quân binh Ninh Châu nhìn theo khiếp vía.
Đây nói về quân Ân, quân Hung Nô, ngày đêm ráo riết, đánh chiếm các Châu Quận Huyện hầu như gần nuốt sạch Bắc Văn Lang. Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ sắp mất đến nơi quân Ân bao vây lớp lớp trùng trùng. Hùng Lang Công, Lạc Tướng Cao Giang, Hầu Tướng Việt Yên, biết thế nào quân Ân cũng chiếm được Kinh Đô nhưng thà chết không chịu đầu hàng cố thủ tử chiến. Nhất là Hùng Lang Công vô cùng căm giận Giặc Ân, xâm lược cướp nước, còn giết chết hai người con là Hùng Tướng và Hùng Điền, nên ra lệnh cố thủ thành dù sắp chết đói đến nơi, dân chúng cũng như quân binh đã lai rai chết đói, quân Ân hiểu rõ thời cơ đã chín mùi chỉ cần ra tay là chiếm được được Kinh Đô và ngày giờ đã quyết định là tấn công vào Kinh Đô khi lúc mặt trời lên với hơn ba mươi vạn quân Ân bao vây Kinh Đô đông như kiến, đao kiếm ngùn ngụt, ngựa hí vang trời, quân reo dậy đất.
Hùng Lang Công, Lạc Tướng Cao Giang, Hầu Tướng Việt Yên ở trên cung thành nhìn quê hương non nước như nhìn lần cuối, tay nắm chặt thanh đao như nói thầm rằng hãy quyết tử với chúng.
Nước Văn Lang lửa thù soi giếng hận
Lũ quân thù, lũ tán tận lương tâm
Lũ ngoại xâm, nầy hỡi lũ ngoại xâm
Mi gieo rét, bao ngục tù chết chóc
Giờ quyết tử, ta sẵn sàng chiến đấu
Nguyện theo về, với thế giới Cha Ông
Thân xác nầy, trả lại với non sông
Giờ quyết tử, quyết chiến quyết xông.
Nói về Hùng Lang Công, Lạc Tướng Cao Giang, Hầu Tướng Việt Yên nhìn mặt trời lần cuối trước khi vĩnh biệt cõi trần. Tiếng còi khai trận trên đài quan sát Ân Mao Vương phất cờ lệnh tấn công, tức thời nghìn nghìn thang dây lao tới bắt lên thành, có đội quân xạ tiễn yểm trợ bắn lên thành như mưa.
Cùng lúc ấy từ phía Tây một cơn bão lốc cuồn cuộn ập tới, tiếng vó ngựa ầm ầm vang rền trời đất, thoáng chốc đội quân người sắt xuất hiện lao vào hơn 30 vạn quân Ân xơi ráo riết, quân Ân bị đánh văng bay lên trời như giấy, kẻ bể đầu, người nát như tương, với chiếc roi sắt dài mấy mươi thước. Gióng vung lên vù vù quân Ân bỏ mạng lớp lớp. Nghịch Phong kinh hoàng khiếp vía cỡi ngựa bay lên không phóng đao Thần tới người sắt Khổng Lồ chỉ nghe nổ ầm ầm đao Thần nát vụn. Nghịch Phong niệm chú hóa phép yêu tinh quỉ dữ hiện ra lao vào người sắt, ngựa Thần phun lửa đốt sạch, bỗng ngựa sắt bay lên không roi sắt đánh tới Nghịch Phong. Nghịch Phong múa kiếm lên đỡ, nào ngờ một tiếng bộp dữ dội, Nghịch Phong cả người lẫn ngựa nát như tương. Ân Mao Vương nhìn thấy kinh hồn bạt vía, Ân Mao Vương chưa kịp chạy trốn thời Gióng bay đến đánh một roi quan sát đài cao bảy tần chỉ nghe ầm một tiếng kinh thiên động địa quan sát đài nát vụn. Ân Mao Vương nát như tương. Roi sắt cũng gãy làm ba khúc. Gióng dắt khúc roi còn lại vào lưng, phi ngựa tới bờ tre nhổ lấy tre đánh vào quân Ân tơi tả chết la chết liệt, cây tre nầy hư nát, Gióng lại nhổ cây tre khác cứ thế hết cây tre nầy đến cây tre khác. Quân Ân không còn sống sót để mà trở về quê hương, xác quân Ân la liệt thành gò thành đống. Không ai là không khủng khiếp cho trận chiến diệt quân Ân thần tốc nầy.
Về sau có thơ rằng:
Rầm rầm dậy đất dậy trời
Cuồng phong bão táp ầm ầm kinh thiên
Ngựa Gióng phun lửa liên miên
Roi Gióng cuồn cuộn đảo điên đất trời
Quân Ân lớp lớp tơi bời
Cháy đen, nát thịt, bể đầu, tan thây
Đùng đùng ngựa dẫm quân Ân
Chôn vùi tan xác còn chi cuộc đời
Quân Ân hồn vía rụng rời
Xác văng tứ phía rụng đầu sứt chân
Ào ào muôn trận cuồng phong
Đường roi bão táp cuốn phen quân thù
Đường roi cuồn cuộn ù ù
Ầm ầm nện xuống nát nhừ quân Ân
Quân Ân khiếp vía hồn kinh
Ném gươm ném giáo chui mình trốn chui
Lũ chuột trốn chạy khắp nơi
Chạy đâu cho thoát ôi thôi còn gì
Đáng đời lũ giặc đáng đời
Ngông cuồng xâm lược để rồi mạng toi.
Hùng Lang Công, Lạc Tướng Cao Giang, Hầu Tướng Việt Yên cùng quân binh trên thành ngơ ngác, quên cả chiến đấu chừng thấy quân Ân từ trên thang dây nhảy xuống đất lớp chết lớp gãy tay gãy cẳng, thời mới giật mình, thời quân Gióng đã biến mất lao về hướng Đông thẳng đến thành Xích Linh.
Hùng Lang Công nói:
Thánh Gióng người thiếu niên Khổng Lồ, Quốc Tổ Thiên Long Vương Sùng Lãm, đã hiện về cứu nước Xích Quỷ khỏi rơi vào tay giặc.
Ai đời đánh giặc lạ đời
Dùng tre thay giáo tuyệt vời khó tin
Bờ tre khắp chốn khắp nơi
Để cho Thánh Gióng nhổ lên diệt thù
Tre thành roi Thánh nhà Trời
Đánh cho quân giặc rụng rời khiếp kinh
Tre thành gươm giáo uy linh
Đánh cho quân giặc hãi kinh khiếp hồn
Tre là biểu tượng anh hùng
Giặc mà nhìn thấy hãi hùng hoảng kinh.
(Quốc Tổ Thiên Long Vương Sùng Lãm, là Quốc Tổ khai sanh ra nước Xích Quỷ, thời đại Kinh Dương Vương).
PHẦN 30: QUÉT SẠCH HUNG NÔ
Đây nói về thành Xích Linh quân Hung Nô chưa làm gì nổi chỉ ở thế bao vây mà thôi, chờ cho quân Xích Linh đói chết tự đầu hàng, quân Hung Nô sau những lần bại trận chỉ còn không đầy 10 vạn, nay đã hồi phục trở lại lên đến 15 vạn, với tình cảnh nầy quân Hung Nô như con hổ rình mồi. Chờ cho con mồi đói lả, lao tới ăn thịt không cần tốn công mệt sức. Hung Nô Vương cùng hai con là Hung Quân Liệt, Hung Đa Di lấy làm đắc ý vì con mồi đã ở trong tầm tay. Ba cha con Hung Nô, đang hảm hiếp những cô gái đẹp Bắc Văn Lang chúng hảm hiếp hết cô nầy đến cô khác, rồi chúng quăng ra cho binh lính hảm hiếp. Nhìn thấy cảnh ấy không ai là không sôi gan, cho quân tàn bạo cướp nước. Chúng đang hả hê hảm hiếp những cô gái trẻ. Bỗng nghe cuồng phong kéo tới ầm ầm, quân Hung Nô giật mình khiếp sợ, không hiểu là có chuyện gì.
Đây nói về Lạc Kim Tiên, trong lúc chợp mắt thời thấy Sư Phụ hiện về nói:
Khi mặt trời lên sẽ có Thánh Gióng xuất hiện, đánh tan quân Hung Nô, giải thoát kiếp nạn cho Bắc Văn Lang.
Lạc Kim Tiên giật mình tỉnh giấc không thấy Sư Phụ đâu cả, khi ấy trời cũng sắp hừng sáng. Lạc Kim Tiên liền nói với cha là Lạc Hầu Vương cũng như anh trai là Lạc Hồng Hầu những gì Sư Phụ đã hiện về nói cho biết là quân Hung Nô sắp bị đánh tan, khi Thánh Gióng xuất hiện, lúc mặt trời lên. Tin nầy được lan truyền nhanh chóng khắp trong thành Xích Linh, binh lính cũng như dân chúng kéo lên tường thành chờ đợi Kỳ Tích xuất hiện.
Mặt trời đã lên cao, nhưng sao chưa thấy Kỳ Tích xuất hiện, niềm tin đã bắt đầu lung lay. Bỗng Lạc Kim Tiên la lớn:
Khói bụi từ hướng Tây đã xuất hiện.
Lạc Hầu Vương la lớn:
Tới rồi.
Đoàn quân Gióng đã xuất hiện, quân dân trên thành thấy Gióng cầm cây tre múa vù vù đánh vào quân Hung Nô như cơn bão lốc quân Hung Nô bị đánh văng tứ tung lên không như giấy, quân Gióng xơi quân Hung Nô như mèo xơi bầy chuột, chúng bị đánh văng đi tứ tung, bể đầu, gãy chân, gãy tay, người thì nát như tương, người thì bẹp lép, chết la chết liệt thành gò thành đống. Kim Tiên thấy Thánh Gióng như người Khổng Lồ nhưng mặt còn trẻ con, nhổ lấy tre đánh giặc không khỏi phì cười, đúng là trò trẻ con có một không hai trên trần thế.
Chỉ trong phút chốc quân Hung chết sạch, Hung Nô Vương cùng hai con bỏ mạng. Gióng đánh tan quân xâm lược Gióng liền phi ngựa về hướng Nam mất hút, đoàn quân của Gióng cũng mất hút theo. Nguyên Dực, Nguyên Minh bỏ lại quân binh Tướng Lĩnh theo chân Gióng chỉ còn lại quân Triều Đình, và những quân binh theo Gióng ra trận.
Anh tài hào kiệt anh hùng
Cứu dân cứu nước diệt nầy ngoại xâm
Giữ gìn độc lập non sông
Để cho non nước bình yên thái bình
Gương lành để lại cho đời
Uy danh muôn kiếp sáng ngời anh linh
Hiếu trung sách sử chép ghi
Công lao cứu nước sáng soi đời đời
Lời còn nhớ mãi anh hào cứu dân.
Lạc Hầu Vương, Lạc Hồng Hầu, Lạc Kim Tiên, Đinh Hoàng, Nguyên Thông nhận ra Cao Hải. Nhất là Lạc Kim Tiên vừa nhìn thấy Cao Hải thời lòng vui mừng không sao kể xiết, như vừa nuốt phải một lạng sâm vào bụng ra lệnh cho người mở cổng thành phi ngựa ra gặp Cao Hải.
Nhìn thấy xuân về sau gió đông
Nghìn hoa đua nở đợi bướm ong
Xao xuyến tình duyên lòng con gái
Bến đợi sông chờ, khách qua sông
Đôi môi vừa hé hôn làn gió
Cháy bổng hồn xuân ấm tình nồng
Đa cảm phải đành ôm nỗi nhớ
Bóng dáng người tình mãi đợi trông
Lòng em như vạn mùa xuân
Trời thu trong vắt, biển đông dậy tình
Em nghe ngọt lịm tâm hồn
Đa tình đầy ắp biển trời nhớ thương.
Cao Hải gặp lại Kim Tiên cũng không kìm nỗi lòng xúc động, tưởng như là sẽ không còn gặp lại nhau nữa, Cao Hải giới thiệu một số Tướng Lĩnh cho Lạc Kim Tiên. Lạc Kim Tiên thi lễ chào hỏi xong thời cũng vừa lúc. Lạc Hầu Vương, Lạc Hồng Hầu, Đinh Hoàng, Nguyên Thông vừa tới thi lễ đón rước các Tướng Lĩnh vào thành, thiết đãi ăn mừng chiến thắng cũng như bàn luôn việc Quốc Sự, chính đốn lại trật tự an ninh Bắc Văn Lang, ra lệnh cho quân binh truy nả quân giặc còn đang chạy trốn, cũng như ra cáo thị cho dân chúng, phải tuân theo pháp lệnh của nhà nước Văn Lang, nếu ai không tuân theo sẽ bị xử trảm.
Các Quan Tướng đang bàn việc Quốc Sự thời có quân vào báo:
Có thư của Hùng Lang Công nơi Kinh Đô Xích Quỷ gởi tới.
Nội dung thư như sau: Các Quan, các Tướng, các bộ, các Châu, các Quận, các Huyện, cũng như các Quan Tướng Triều Đình về Kinh Đô hợp gấp, bàn nhiều việc trọng đại.
Theo công văn Bệ Hạ Hùng Huy Vương. Người viết thư Hùng Lang Công. Thế là các Quan Tướng tức tốc lên đường đến Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ để dự họp.
Đây nói về Nam Ninh Xích Quỷ, Kinh Đô Bắc Văn Lang các Quan Tướng ra vào tấp nập, nhanh chóng đi vào cuộc họp chấn chỉnh lại Bắc Văn Lang đã trải qua một thời gian dài đi vào hỗn loạn, nhiều Bộ Lạc nổi lên đòi tự trị khắp nơi. Xưng Vua xưng Chúa, theo trào lưu phương Bắc, Nhà Thương, Nhà Chu. Với chính sách khoan hồng của triều chính Văn Lang, Hùng Huy Vương ân xá tất cả những tội lỗi của những Bộ tộc trong Bách Việt Văn Lang, có sự lầm đường lạc hướng, nổi lên đòi tự trị, gây ra bao cảnh chết chóc, nồi da nấu thịt, làm cho đất nước suy vong. Nếu bộ tộc nào có ý phản loạn, học đòi theo phương Bắc nổi lên xưng Vua, xưng Chúa thời giết chết không tha. Nhờ chính sách khoan hồng ân xá, không làm tổn hại những Bộ Tộc gây ra tội lỗi trước đây, mà còn có chính sách nâng đỡ, nên được lòng dân, nước Văn Lang vì thế bình yên thêm mấy trăm năm nữa, thái bình an lạc. (Điều đáng tiết ở đây, nước Văn Lang thời bấy giờ văn hóa Cội Nguồn không còn nên không lấy gì để dạy dân, mà chỉ dạy dân theo thể chế phong kiến, theo xu thế phương Bắc, hết họa nầy nối liền theo họa khác, do phương Bắc thao túng làm hại).
QUỐC BẢO
CHÂN KINH
VĂN LANG
CHIẾN SỰ
III
THIÊN ẤN THIÊN BÚT
GÒ HỘI
ĐỨC PHỔ QUẢNG NGÃI
2013
Nguyễn Đức Thông
LỜI MỞ ĐẦU
Nói về Quốc Tổ Hùng Vương. Cùng Bách Việt khai dựng lập lên nước Văn Lang hùng mạnh rộng lớn. Giết chết ba con Yêu Tinh Quỉ dữ. Mộc Tinh, Ngư Tinh, Hồ Tinh, cùng vô số Tướng Lĩnh Yêu Tinh. Cũng như con cái, cháu, chắt, chút, chít, của ba con Chúa Tể Yêu Tinh lên đến hàng vạn vạn.
Vì thế con cháu Văn Lang là mối thù truyền kiếp của chúng có cơ hội là chúng hãm hại. Không bằng cách nầy cũng bằng cách khác. Nhất là ở các giai đoạn thời kỳ cuối các thời Hạ Hùng Vương. Thời kỳ mạt pháp Văn Hóa Cội Nguồn không còn. Nền Quốc Đạo biến mất, các quyền cơ bản con người cũng mất theo. Nước Văn Lang rơi vào cảnh tối tăm, dân chúng lạc vào tà ma ác đạo.
Nguy hiểm nhất là Linh Hồn ba con chúa tinh ác Quỷ cũng như con cái cháu chắt của chúng đầu thai làm người không những ở Phương Bắc Nhà Chu, mà còn đầu thai ở Bắc Văn Lang, có cơ hội là chuyển xây tình thế hãm hại con cháu Tiên Rồng nhân loại Đồng Bào nói chung, con cháu Văn Lang nói riêng. Gây ra bao thảm cảnh tang thương chết chóc chiến tranh loạn lạc cùng khắp. Nhất là cảnh chiến tranh tương tàn nồi da nấu thịt ở dân tộc Văn Lang. Chúng không để yên cho Bách Việt Văn Lang hưởng thái bình an lạc nhất là những cuộc nổi lên nội chiến kinh hồn. Dân tộc Văn Lang con cháu Tiên Rồng, con dân Quốc Tổ Vua Hùng phải chịu cảnh Đồng Bào nồi da nấu thịt. Ác Quỉ giành lấy chính quyền biến dân tộc Văn Lang thành dân tộc nô lệ dưới sự dày xéo nanh vuốt của chúng.
Sức mạnh của Loài Ác Quỉ là chúng đầu thai làm người Phương Bắc chuyển xây tình thế xua quân xâm lược Phương Nam. Làm cho đất nước Văn Lang đầu rơi máu đổ. Chiến Tranh đói nghèo lạc hậu khốn khổ vô cùng. Nhất là sự lừa dối cũng như sự độc tài độc trị tàn bạo cai trị thảm khốc của chúng.
Có khi chúng sanh ra trên đất nước Văn Lang. Rồi tạo lên cảnh nồi da nấu thịt. Như Cha Con Doãn Thường chẳng hạn nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang, biến Bắc Văn Lang trở thành Trung Thổ Trung nguyên. Nước Văn Lang Bắc Nam chinh chiến. Dân tộc Bách Việt Văn Lang con cháu Tiên Rồng con dâng Vua Hùng tàn sát lẫn nhau. Gây ra cảnh Đồng Bào tương tàn. Cha con anh em, dòng họ chém giết lẫn nhau nhà tan cửa nát.
Chúng đầu độc Văn Hóa ảo tưởng, nhất là Văn Hóa mê tín dị đoan, chúng nhập đồng nhập xác nói ra những điều xàm bậy làm mê muội con người. Lũ ác Quỉ lạm dụng ngôn từ trau chuốt bóng bẩy đầu độc dân chúng nhất là văn hóa Thần Quyền tôn thờ Thần Thú, Cầm Thú, Thần Vật làm cho dân chúng quên Cội quên Nguồn. Quên đi truyền thống Nguồn Cội anh linh Tiên Rồng Dân Tộc. Làm cho xã hội luôn đi vào hỗn loạn xuống cấp đạo đức chỉ biết tranh hơn, tranh thua hận thù tham lam tàn bạo. Chậm phát triển dẫn đến đói nghèo lạc hậu.
Chiến tranh triền miên dân chúng luôn rơi vào cảnh khốn khổ nhiều mặt tinh thần lẫn vật chất, nhất là về mặt độc tài độc trị hết sức tàn bạo. Với phép thuật thần thông đa ngôn xảo ngữ của các loài Yêu tinh Quỉ dữ đầu thai chuyển kiếp làm người chúng gây ra không biết bao nhiêu thảm cảnh chiến tranh nồi da nấu thịt. Như Cha Con Doãn Thường chẳng hạn, đã đánh lừa được lòng ham muốn của con người. Đánh lừa được Bách Việt Bắc Văn Lang. Nhất là những giai cấp khốn khổ chạy giặc từ Phương Bắc di cư sang Bắc Văn Lang. Bọn ác Quỉ Cha Con Doãn Thường đêm trăm nghìn cái lợi dụ dỗ dân chúng. Lợi thì như núi non biển cả nhưng không còn cái răng để mà ăn. Vì mất tất cả không những về vật chất mà còn lẫn cả tinh thần, thậm chí những quyền cơ bản con người như quyền sanh sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc không còn. Chỉ biết than trời khóc đất.
Những loài ác Quỉ sanh ra làm người lợi dụng lòng tin nơi chúng dân. Chúng hiện thân ra như một đấng con Trời lên ngôi Thiên Tử. Chúng muốn dân chết là chết, cho dân sống là sống không ai dám cải chỉ biết răm rắp nghe theo tin theo. Nhưng chúng không hiểu một điều, đã là Thiên Tử con Trời thời không tàn sát sanh linh nhất là con người. Luôn đem lại sự công bằng bình đẳng cho con người bảo vệ những quyền thiêng liêng con người mà Tạo Hóa đã ban cho. Những quyền bất khả xâm phạm.
Thiên Tử Con Trời thời sống theo Thiên ý Cha Trời Thiên luật Vũ Trụ không tạo ra cái cảnh nồi da nấu thịt, mà luôn đem lại hòa bình thịnh vượng cho muôn dân. Thiên Tử Con Trời không có cảnh đi xâm lược mà luôn luôn tôn trọng chủ quyền độc lập của nhau hòa hiếu lẫn nhau. Thiên Tử Con Trời cũng có sự cạnh tranh nhưng sự cạnh tranh công bằng bình đẳng thi đua tiến hóa vương lên đỉnh cao của thời đại theo khuôn khổ Hiến Pháp Luật Pháp, Đạo Pháp chân chính cho phép. Không phải cạnh tranh hủy diệt lẫn nhau, thôn tính lẫn nhau. Thiên Tử Con Trời không có cảnh độc tài độc trị độc bá thiên hạ tranh giành thiên hạ, biến thiên hạ vào cảnh nô lệ, cướp đất đai thuộc địa gây ra cảnh chiến tranh đầu rơi máu đổ.
Những kẻ đầy lòng dã tâm tham vọng mưu đồ xưng vương xưng bá không phải Thiên Tử con Trời, mà chỉ là Yêu Tinh Quỉ dữ đầu thai. Bành trướng tham tàn ác bá độc tài đọc trị chém giết đồng loại đây chỉ là những kẻ ngụy Thiên Tử tự xưng là con Trời hầu lừa bịp dân chúng.
Thật ra những Thiên Tử tự xưng giả hiệu nầy chỉ là những kẻ thắng xưng là Vua thua cho là Giặc Xem đi xét lại Giặc với vua cũng chỉ là một thứ chẳng khác gì nhau. Những Thiên Tử tự xưng giả hiệu con Trời đầy rẫy trong thời đại Phong Kiến. Nhất là thời đại Phong kiến Thần Giáo. Phong Kiến Địa Chủ, Phong Kiến Vua, Chúa. Nhờ vào phép thuật tu luyện hàng nghìn năm trở thành đa ngôn xảo ngữ lừa dối con người dẫn con người vào con đường tối tăm không biết đâu là phải trái Thiện ác.
Như Cha Con Doãn Thường chẳng hạn sử dụng từ ngữ bóng bẩy lời nào cũng có lợi cho dân. Để đánh lừa được lòng ham muốn con người. Biến giả thành chân. Che đậy lớp vỏ bọc bên ngoài. Che đậy sự tham lam tàn bạo nanh vuốt của loài ác Quỉ. Chúng gây ra cho con cháu Tiên Rồng Bách Việt Dân Tộc Văn Lang bao cảnh chiến tranh nồi da nấu thịt, hết nô lệ nầy đến nô lệ khác, hết thời kỳ khốn khổ nầy đến thời kỳ khốn khổ khác làm tiêu tan đất nước Văn Lang Từ thời gần cuối Nhà Chu. Kéo dài cho đến ngày nay hơn hai nghìn năm mấy trăm năm.
Sự lạm sát của những loài Ác Quỉ giết hại con người quá lớn. Làm kinh động đến các Tầng Trời. Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa. Vì thương nhân loại Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa đầu thai xuống trần. Diệt trừ Yêu Tinh Quỉ dữ trừ hậu họa cho con người. Nhưng diệt được ác quỉ nầy thời liền mọc ra ác Quỉ khác. Thái bình thịnh trị không được bao lâu thời chiến tranh loạn lạc trở lại. Làm khốn khổ con cháu Tiên Rồng. Dân Tộc Văn Lang hết nghìn năm nầy đến nghìn năm khác.
Nhất là các thời kỳ cuối thời Hạ Hùng Vương. Từ thời thứ 13 Hùng Việt Vương: Tuân Lang: 569 đến 506 trước công nguyên. Trở xuống đến thời Hùng Duệ Vương: Huệ Lang thứ 18 cuối thời Hạ Hùng Vương 306. Rồi đến thời Âu Lạc 258 trước công nguyên. Khốn khổ kéo dài cho đến tận ngày nay.
Trong các cuộc chiến tranh xâm lược bành trướng quân thù. Thời chiến tranh xâm lược Văn Hóa là độc hại nhất Nguy hiểm nhất. Nhất là thứ Văn Hóa làm cho con người mất đi tự chủ. Mất đi truyền thống anh linh dân tộc Lạc Cội Lạc Nguồn. Làm cho dân tộc rã rời đoàn kết. Đạo đức xuống cấp đánh mất lương tâm con người. Làm cho con người không phân biệt được đâu là đúng sai nữa. Thậm chí anh em tàn sát nhau mà vẫn cho là đúng, mà còn cho đó là vinh. Cái vinh đáng sợ làm sao một nhát đao chém xuống anh em vui mừng chiến thắng. Sự sai lầm nào cũng phải có ngày tỉnh ngộ chấm dứt, sự khô cằn nào cũng phải có ngày đâm chồi nẩy lộc. Dân tộc Việt Nam khốn khổ bao nhiêu thời vui sướng lại bấy nhiêu.
Văn Hóa Cội Nguồn xuất hiện thời Chân – Giả, Trắng – Đen, Chính Nghĩa – Phi Nghĩa sáng tỏ. Mặt Trời Văn Hóa Chánh Đẳng Chánh Giác ra đời thời nhân loại mới đi vào ổn định bình yên kéo dài rất lâu có thể nói thế giới nhân loại đi vào cảnh thiên đàng cực lạc trần gian nói chung Việt Nam nói riêng trong một niềm vui thái bình thịnh trị an lạc. Trên mảnh đất Địa Long Vũ Trụ hình chữ S tức là nước Việt Nam Con Cháu Rồng Tiên sẽ nở hoa Chánh Đẳng Chánh Giác. Tiến tới Chủ nghĩa Thiên Quyền Nhân Chủ đại đồng Long Hoa hội tụ. Rồng Tiên Tỏa Sáng ra đời. Quốc Tổ Vua Hùng. Dân tộc Việt Nam. Nước Việt Nam chóa ngời rạng danh khắp cùng thế giới.
Việt Nam chữ S đất phù sa
Nằm giữa Âm – Dương Cốt Long Hoa
Thánh Địa anh linh từ muôn thuở
Bừng lên rực rỡ khắp hà sa
Văn Hóa Rồng tiên Đường Chính Nghĩa
Cội Nguồn tỏ rạng Cội Ông Cha
Bổn phận thế thiên hành phụng sự
Thái bình an lạc khắp Âu Ca.
* * *
Sống trên Địa Cốt Long Hoa
Phải là Thiên Sứ cho nhà Rồng Tiên
Trời ban Đất Việt Linh Thiêng
Tiên Rồng nòi giống uy quyền từ đây.
* * *
Ở cuối thời đại Kinh Dương Vương. Hùng Vương Quốc Tổ ra đời từ Văn Hóa Phong Kiến Thần Giáo. Chuyển sang giai đoạn Văn Hóa Cội Nguồn Thánh Giáo. Trong triều nội Vua không làm theo ý các Triều Thần. MÀ CHỈ LÀM THEO HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP điều hành đất nước. Có nghĩa là xóa bỏ đi Độc Tài Độc Trị không làm theo ý kiến cá nhân, cũng như nghe Triều Thần mà chỉ làm theo HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP. Nền QUỐC ĐẠO bí mật của Triều Đại Văn Lang. Nền Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Không truyền xuống dân, mà chỉ truyền xuống Vương Quan lấy đó để trị dân, dạy dân. Ở vào thời đó chữ viết còn quá thô sơ lạc hậu. Nên không thể lưu chép thành Kinh Văn được. Nên dẫn đến tam sao thất bổn HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP, dần dần biến mất. Nước Văn Lang mất đi nền Văn Hiến Quốc Đạo Văn Lang liền trở về thời Phong Kiến Thần Giáo. Như thời đại Kinh Dương Vương chẳng khác gì Phong Kiến Thần Giáo, cũng như Phong Kiến Vua, Chúa ở Phương Bắc kéo dài hơn 10 nghìn năm trong các thời kỳ Phong Kiến.
Nói tóm lại: Phong Kiến Thần Giáo độc tài độc trị. Phong Kiến Vua Chúa độc tài độc trị là những lập luận giáo điều của mỗi cá nhân các Triều Thần mà Vua thường nghe theo và làm theo. Còn Văn Hóa Cội Nguồn là Văn Hóa Thánh Giáo không dựa trên ý tưởng riêng mỗi người để tâu lên vua. Mà là nền HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP. THIÊN LUẬT TẠO HÓA không ai có quyền tự đặc ra hoặc hủy diệt đi. THIÊN LUẬT TỰ NHIÊN VŨ TRỤ chính là nền Quốc Đạo dân tộc Văn Lang. Mà các Vua Hùng lấy đó thay nhau làm nền tảng cho sự trị quốc. Đã là Thiên Tử con Trời thời phải thuận theo Thiên Luật vũ Trụ, Thiên Ý Cha Trời sống theo Văn Hóa Cội Nguồn, luôn bảo vệ quyền con người quyền thiêng liêng Tạo Hóa đã ban cho. Sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp công bằng bình đẳng ai cũng như ai. Không có cảnh độc tài độc trị tốm thâu quyền lực lạm sát vô tội.
* * *
PHẦN 1
Sau thời Phù Đổng Thiên Vương hơn ba trăm năm mươi năm thời Cha Con Doãn Thường, nổi lên làm một cuộc chính trị tài tình nuốt trọn toàn bộ Bắc Văn Lang. Bắc Văn Lang chính là nước Xích Quỷ ở thời Kinh Dương Vương. Cha Con Doãn Thường nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang Chia cắt đất nước Văn Lang ra làm hai.
Bắc Văn Lang Cha Con Doãn Thường cai quản thống trị. Chỉ còn lại Trung – Nam Văn Lang Hùng Việt Vương. Tuân Lang, đời thứ 13 Hạ Hùng Vương cai quản thống trị 569 đến 506 trước công nguyên. Mở ra thời đại đen tối cho con cháu Tiên Rồng. Đất nước Văn Lang đi vào cảnh Bách Việt nồi da nấu thịt. Cha Con Doãn Thường nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang xưng là Việt Vương.
Vì dân tộc Văn Lang là dân tộc Bách Việt, muốn hợp lòng dân thời Cha Con Doãn Thường phải xưng Việt Vương, Vua Việt, thời dân chúng bách Việt mới theo về che chở bảo vệ. Có thể nói Cha Con Doãn Thường rất thông minh lại có mưu đồ lớn nuốt trọn nước Văn Lang lật đổ thời đại Hùng Vương, thay thế thời đại Việt Vương. Vì thế Hùng Việt Vương, Tuân Lang đời thứ 13 Hạ Hùng Vương khốn đốn trước sự khôn ngoan của Cha Con Doãn Thường nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang. Mà không cách gì lấy lại Bắc Văn Lang được.
Cha Con Doãn Thường có nguồn gốc Ông Cha từ Phương Bắc di cư đến đất Cối Kê Bắc Văn Lang sanh sống trải qua 30 đời. Đến đời Doãn Thường thời dòng họ Vũ nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang xưng Việt Vương, không phải dòng dõi Vua Hùng. Bắc Văn Lang chính là nước Xích Quỷ chín đời Kinh Dương Vương nối tiếp nhau trị quốc một đất nước giàu có không những giàu có về vàng bạc ngọc ngà châu báu, mà giàu có về lương thực nhất là văn minh lúa nước. Cũng vì sự giàu có nầy mà luôn gặp phải mối họa về xâm lược của các thế lực ngoại xâm. Cũng như những tay lòng đầy dã tâm tham lam nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang nước Xích Quỷ làm của riêng cho mình như Cha Con Doãn Thường biến Bắc Văn Lang thành một thuộc địa Việt Trung Nguyên, sau nầy Việt Trung Nguyên chuyển đổi thành Trung Quốc.
Vì Sao Bắc Văn Lang trở thành Việt Trung Nguyên?
Là vì cha con Doãn Thường nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang xưng Vương ở giữa. Nam có Hùng Vương. Bắc có Chu Vương. Giữa có Việt Vương. Kể từ khi Cha Con Doãn Thường nổi lên chiếm toàn bộ Bắc Văn Lang, thời danh từ thuộc địa Việt Trung Nguyên mới ra đời. Từ đó Bắc Văn Lang dần dần biến mất thay thế danh từ Trung Nguyên. Bắc Văn Lang không còn nữa. Chỉ nghe đến danh từ Trung Nguyên mà thôi.
Bắc Văn Lang vốn là nước Xích Quỷ giàu có trù phú vô cùng dân số lại đông lên nhanh chóng không có nơi nào sánh kịp. Là do dân Phương Bắc di cư đến ở vào các thời kỳ Nhà Hạ, Nhà Thương, Nhà Ân, Nhà Chu. Phương Bắc không ổn định như Phương Nam Văn Lang chiến tranh loạn lạc truyền miên. Dân chúng lánh nạn chiến tranh di cư đến Bắc Văn Lang sanh sống đông vô số đây chính là cơ hội thuận lợi cho Cha Con Doãn Thường có nguồn gốc Phương Bắc nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang.
Hùng Việt Vương, Tuân Lang, rất khó tiêu diệt được vì Cha Con Doãn Thường quá khôn khéo biết dùng hình ảnh Quốc Tổ Hùng Vương làm bức bình phong che chắn cho sự dã tâm nổi lên chiếm lấy Bắc Lang xưng Việt Vương. Cha Con Doãn Thường trở thành dân tộc Văn Lang Bách Việt, trải qua nhiều đời. Nên Hùng Việt Vương, Tuân Lang không thể liệt Cha Con Doãn Thường là giặc ngoại xâm được. Mà chỉ coi Cha Con Doãn Thường là quân phản loạn.
Trong khi phần lớn dân Bắc Văn Lang đồng tình ủng hộ cuộc nổi dậy cha Con Doãn Thường. Vì cho Cha Con Doãn Thường là dòng giỏi các Vua Hùng tái sanh chấn hưng lại nước Văn Lang xóa bỏ độc tài độc trị cũng như tham quan ô loại đem lại sự công bằng bình đẳng cho muôn dân, như thời Quốc Tổ dựng nước. Nên Hùng Việt Vương, Tuân Lang khó mà đánh bại được.
Chỉ còn một cách là Nam Bắc phân tranh mà thôi cũng từ đây dân tộc Bách Việt Văn Lang nội chiến đầu rơi máu đổ nồi da nấu thịt Nam – Bắc phân tranh vô cùng khốc liệt. Loài ác quỉ chưa vì thế mà dừng tay tiếp tục hảm hại dân tộc Văn Lang con cháu Tiên Rồng hơn hai nghìn năm.
Ở vào thời điểm nầy Phương Nam Hùng Vương. Phương Bắc Nhà Chu. Không khác gì nhau. Duy trì chủ nghĩa Phong Kiến Thần Giáo. Có nghĩa Vua nghe theo Triều Thần. Làm Theo Triều Thần. Cũng cố sự Độc Tài Độc Trị. Cha Con Doãn Thường khôn ngoan hiểu rõ sự thống khổ của dân dưới thể chế Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị của chủ nghĩa Phong Kiến Thần Giáo đã trải qua hàng nghìn nghìn năm.
Cha Con Doãn Thường nghiên cứu rất kỷ về thời đại Hùng Vương dựa trên cơ sở nào mà kéo dài sự độc lập lâu như vậy. Và đã phát hiện sự kéo dài sự Độc Lập đó. Không phải dựa trên cơ sở Phong Kiến Thần giáo nghe theo triều Thần, lấy cơ sở Triều Thần trị quốc. Mà là có một nền HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP rõ ràng. Vua, Quan, Dân đều sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp đó. Tức là nền Quốc Đạo Dân Tộc ai cũng như ai Bình Đẳng, Xã Hội Công Bằng Dân Chủ Văn Minh. Một nhà nước lấy Dân làm Gốc, Dân Chủ: Dân có quyền, khác với thể chế Phong Kiến Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị. Thể chế của sự xin cho. Mà là Nhà nước của Dân do Dân và vì Dân. Như thời Quốc Tổ Vua Hùng dựng lên Nhà Nước Văn Lang.
Nhưng Cha Con Doãn Thường lại không hiểu một điều Quốc Tổ Vua Hùng khai dựng lên Nước Văn Lang rộng lớn hùng mạnh. Không phải dựa trên chiến tranh gươm đao giáo mác. Tàn sát lẫn nhau mạnh được yếu thua. Thắng là Vua, thua là Giặc xem đi xét lại giặc với Vua cũng chỉ là một thứ. Mà là dựng nước Văn Lang rộng lớn hùng mạnh dựa trên Quyền Con Người Công Bằng Bình Đẳng Văn Hóa Cội Nguồn trở thành nền Quốc Đạo dân tộc thịnh trị 2701 năm. Văn Hóa Mặt Trời Chánh Đẳng Chánh Giác. Văn Hóa Chủ Nghĩa Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng. Văn Hóa Công Bằng, Bình Đẳng, Tự Do Dân quyền văn minh. Vua TỐI CAO của Nước Văn Lang không phải là người khai lên Nước Văn Lang, mà chính là nền HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP. Nền quốc Đạo Dân Tộc VUA, QUAN, DÂN đều tôn thờ. Đây là điều bí mật kéo dài Độc Lập của Nước Văn Lang. Cha Con Doãn Thường không thể nào với tới nổi. Những bí mật cao siêu như vậy. Cứ Nghĩ Vua là trên hết, mà không hiểu có một thứ trên cả Vua. Đó là Thiên Luật Vũ Trụ. Cũng Chính là Thiên Ý Cha Trời, cũng chính là Lương Tâm con người, hiện thân HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP mà Quốc Tổ Vua Hùng dùng nó để khai dựng lập lên Nước Văn Lang.
Quốc Tổ Vua Hùng khai dựng lên nước Văn Lang không phải bằng vũ lực thắng là Vua thua cho là giặc. Mà bằng con đường Văn Hóa Cội nguồn cũng chính là nền Hiến Pháp nền Quốc Đạo dân tộc. Văn Hóa Chánh Đẳng Chánh Giác tối cao Vũ Trụ. Văn Hóa mặt trời trí tuệ soi sáng cho Bách Việt Văn Lang. Mất văn Hóa Cội Nguồn thời dân tộc Văn Lang cũng theo đó mà tan rã. Bóng u minh trùm xuống chiến tranh loạn lạc triền miên. Yêu Tinh Quỉ dữ đầu thai làm người chuyển xây tình thế tàn hại con người nói chung dân tộc văn Lang con cháu Tiên Rồng lạc vào con đường ác đạo hầu hết sa đọa xuống các tầng Địa Phủ. Và cho đến khi nào dân tộc Việt Nam sắp đi vào đại họa diệt vong mất nước thời anh linh Quốc Tổ Vua Hùng sẽ xuất hiện cứu nguy dân tộc Việt Nam tiêu diệt ba con chúa quỉ không cho chúng ngự trị hình chữ S Địa Long Vũ Trụ tức là nước Việt Nam ngày nay.
* * *
PHẦN 4
Ở vào thời gần cuối thời Hùng Việt Vương: Tuân Lang. Đời thứ 13 Hạ Hùng Vương 569 đến 506 trước công nguyên uy lực Vua Hùng suy yếu là do Văn Hóa Cội Nguồn đã biến mất Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp chân chính không còn cũng ra đi.
Nền Văn Minh Tự Do, Công Bằng Bình Đẳng. Quyền con người lấy dân làm gốc không còn. Dần dần thay vào đó là nền Phong Kiến Thần Giáo Độc Tài Độc trị. Theo thể chế xin cho. Bóng đêm bao phủ trùm xuống nước Văn Lang tham quan mọc ra như nấm. Mua quan, bán chức xảy ra thường xuyên.
Nhất là Bắc Văn Lang sự mua quan bán tước lại càng lộ liễu mua quan bán tước công khai. Lại thêm tình hình lúc bấy giờ bất ổn vì nạn di cư dân chúng Phương Bắc lánh nạn chạy giặc vào Bắc Văn Lang mỗi ngày mỗi đông. Đến nổi không còn kiểm soát được nữa.
Khi ấy ở Đất Cối Kê, Lạc Giang Châu, nơi con sông Lạc, sông Kinh. Có một gia đình rất đông con cháu, giàu có nhất Lạc Giang Châu có tới trăm thương đoàn buôn bán giao dịch hầu khắp Trung – Bắc Văn Lang. Vị giàu có đó tên là Việt Tế Gia.
Ông là người tôn thờ Văn Hóa Phương Bắc Phong Kiến Thần Giáo. Tôn thờ thuật Xin Xăm, Bói Quẻ, Nhập Đồng, Nhập Bóng. Mê Tín dị đoan tôn thờ các loài Thần Thú. Việt tế Gia là dòng dõi Vua Vũ từ Phương Bắc thời Nhà Hạ di cư đến Đất Cối Kê để ở.
Việt Tế Gia duy trì được gia phả dòng họ trên ba mươi đời. Nên hàng năm đến ngày giỗ tổ Vua Vũ. Không những các chi nhánh dòng họ, mà còn nhiều dòng họ khác liên quan đến Ông Tổ Vua Vũ cũng đã đông đến lên hàng nghìn nghìn người. Ngoài Dòng Họ Vũ ra còn có Dòng Họ Triệu con cháu Triệu Tế Bá Gia đông vô cùng. Không ít con cháu các chi nhánh Dòng Họ Triệu làm đến Bố Chánh Đại Nhân Quan Huyện. Rải rác khắp Bắc Văn Lang.
Thế lực Việt Tế Gia Họ Vũ ở vào thời điểm nầy phải nói là không ai dám đụng đến. Vì đại đa số con cái cháu chắt đang nắm chính quyền Từ Châu Bộ, đến Huyện, Xã. Không những thế mà còn Ông Trùm kinh tế Thương Gia khắp Bắc – Trung Văn Lang. Nên mọi sự biến động xảy ra trên nước Văn Lang đều hiểu rõ như trong lòng bàn tay. Nhất là Bắc Văn Lang.
Việt Tế Gia có rất nhiều bà Vợ. Nhưng Hồ Mị Nương là khôn lanh hơn cả trẻ đẹp hơn mấy bà vợ kia. Nên Việt Tế Gia nâng niu chiều chuộng hết mực. Hồ Mị Nương không thích ăn thịt mà thích ăn các loài cá lạ.
Một hôm Hồ Mị Nương nghe nói dân chài bắt được con Thuồng Luồng Đất. Xẻ thịt đem ra chợ bán. Nghe nói ăn thịt được Thuồng Luồng Đất hên lắm lại trị được bá bệnh nhất là bệnh khó có con. Liền cho người mua về thật nhiều phơ khô để dành mà ăn.
Một hôm Hồ Mị Nương nằm mộng thấy một con quái thú Thuồng Luồng bốn chân đầu Sói mình Sấu đuôi Rồng đến chụp Mị Nương. Mị Nương sợ quá ré lên trong lúc canh đêm, làm kinh động cả nhà. Việt Tế Gia hỏi Mị Nương kể lại giấc chiêm bao ấy. Việt Tế Gia lấy làm kinh sợ vì Hồ Mị Nương thấy con quái thú trong giấc chiêm bao chính là Con Quái Thú Thuồng Luồng Phòng Phong mà dòng họ Vũ đã thờ trong cổ miếu có hơn 30 đời.
Không bao lâu Hồ Mị Nương mang thai rồi sanh ra một cậu con trai kháu khỉnh. Trong lúc sanh ra cậu bé trời đất nổi cơn thịnh nộ bất thường mưa gió nổi lên ầm ầm cây cối ngã đổ chết chóc không biết bao nhiêu người. Với điềm lạ ấy nên Việt Tế Gia đặt tên cho con là Doãn Thường.
Doãn Thường lớn lên không thích xu thế giàu, mà thích làm Chính Trị. Điều nầy làm Việt Tế Gia đặt nhiều hy vọng vào Doãn Thường. Doãn Thường rất thông minh học một biết mười học đâu nhớ đó, ăn nói khôn khéo, có tài hùng biện nên rất được nhiều người nghe. Lại thêm có sức mạnh không ai bằng. Doãn Thường không đi theo còn đường làm giàu của Việt Tế Gia. Mà chỉ đi theo con đường Chính Trị. Thu thập võ nghiệp giao du học hỏi khắp nơi nhờ nhân duyên lớn Doãn Thường gặp được một đại Ma Đầu học được Ma Đao tuyệt học Đao Pháp.
Doãn Thường trở thành sát Thủ đệ nhất sát Đao không ai sánh được. Tuy Doãn Thường không đi theo con đường làm giàu của Việt Tế Gia. Nhưng tất cả mưu lược thủ đoạn trong kinh doanh thời Doãn Thường hơn hẳn Việt Tế Gia rất xa. Nên Việt Tế Gia rất hài lòng về việc nầy.
Doãn Thường thường nói với Việt Tế Gia:
Không có kinh danh nào hơn là kinh doanh buôn quan bán tước. Không có cái lợi nào hơn là cái lợi gồm thâu thiên hạ làm thống lĩnh.
Việt Tế Gia nghe Doãn Thường nói thế thời sửng sốt nói:
Con muốn làm vua.
Doãn Thường nói:
Làm Vua, làm Chúa, làm Bá thời có gì hay. Chỉ có xưng Vương mới là thượng sách.
Việt Tế Gia nghe Doãn Thường nói thế thời tái cả mặt không phải vì sợ. Mà vì nghe Doãn Thường có tư tưởng lớn quá. Ở vào thời điểm hiện tại chỉ có hai chúa Vương. Đó là Nam có Chúa Tể Hùng Vương. Bắc có Chúa Tể Chu Vương muốn trở thành một vị Chúa tể Chúa Vương nữa thời còn khó hơn lên trời.
Có một hôm Việt Tế Gia nói:
Doãn Thường theo con tình hình hiện tại con nghĩ Phương Nam có Chúa Tể Hùng Vương mạnh, hay Phương Bắc Chúa Tể Chu Vương mạnh.
Doãn Thường nghe cha hỏi liền trả lời:
Thế Lực Hùng Vương kéo dài hơn mấy nghìn năm, nay đã đến thời kỳ suy yếu. Nền Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp đã thất truyền. Tham quan mọc lên như nấm làm cho dân than oán khắp nơi. Tự đánh mất lòng dân đồng nghĩa là báo hiệu đi vào sụp đổ. Hơn nữa văn hóa Cội Nguồn không còn Đạo Đức suy đồi dẫn đến mê tín dị đoan không khác gì Phương Bắc. Khó mà đoàn kết được sức mạnh toàn dân tộc. Còn Phương Bắc Nhà Chu thời còn tệ hại hơn nữa. Chúa Vương nhà chu nền Phong Kiến Thần Giáo đã đến hồi cực thịnh. Vua Quan tửu sắc dâm loạn ăn chơi trác tán, chỉ biết quyền lực. Độc Tài Độc Trị tham lam tàn bạo nghe theo dua nịnh nay ngã theo nước nầy, mai ngã theo nước kia. Tề mạnh thời ngã theo Tề. Tấn mạnh thời ngã theo Tấn. Sở Mạnh thời ngã theo Sở. Làm cho Phương Bắc các nước xâu xé lẫn nhau. Chiến tranh triền miên dân chúng khốn khổ vô cùng. Tạo ra dòng người di cư vào Nam như nước lũ. Đây chính là cơ hội cho dòng dõi Vua Vũ Ta đầy đủ yếu tố phản loạn lại nhà nước Văn Lang tạo lên nghiệp Vương. Tình thế Bắc Văn Lang bây giờ vô cùng hỗn độn không thể kiểm soát tình hình được nữa. Cướp bóc nổi lên khắp nơi Vương, Quan thời chỉ biết bê tha trong tửu sắc. Kẻ thì quá giàu người thời quá nghèo. Tuy chỉ là Bắc Văn Lang nhưng dân số đông vô cùng. Hai Phần là dân bản gốc, một phần là dân di cư từ Phương Bắc vào. Tuy hai phần dân bản gốc Văn Lang nhưng dân chúng phần đông cũng đã chán chê triều đại Hùng Vương không đem lại lợi ích gì cho dân. Làm Vua mà chỉ nghe theo Nịnh Thần. Trung Thần luôn bị hãm hại, nhân tài vì thế mà không muốn ra giúp nước. Nhất là Bắc Văn Lang chỉ thấy bọn tham quan sách nhiễu vơ vét của dân làm giàu cho bản thân. Không kể gì đến truyền thống anh linh dân tộc. Đi ngược lại lời dạy của Quốc Tổ Vua Hùng. Vì không còn Quốc Đạo nhà nước Văn lang. Sự mất gốc nầy dẫn đến tôn thờ Phong Kiến Thần Giáo không khác gì Văn Hóa Phương Bắc. Đây chính là cơ hội cho chúng ta làm nên nghiệp lớn. Chúng ta chỉ cần khôn khéo dựng Quốc Tổ Hùng Vương dậy. Trước thời làm bình phong che chắn cho chúng ta. Sau là dân chúng theo về, không nghi ngờ gì chúng ta cả chúng ta cứ nói là tôn thờ Quốc Tổ Vua Hùng, thời toàn thể dân chúng Bắc Văn Lang sẽ đi theo chúng ta. Nhưng thật ra chúng ta đi theo một hướng khác. Biến Bắc Văn Lang thành đất nước Trung Nguyên. Xưng Vương ở giữa.
Việt Tế Gia nghe Doãn Thường đưa ra đường hướng khôn khéo như vậy thời khen rằng:
Con quả là có mưu trí hơn người.
Nhưng lại hỏi:
Làm thế nào mà thành nghiệp Vương nhanh chóng được?
Doãn Thường đáp:
Thưa Cha. Đối với những người có chí lớn. Tất nhiên chẳng có gì là khó, chỉ là hiểu rõ Thiên Thời. Hiểu rõ Địa Lợi. Và biết cách lấy lòng dân, dung hòa hết thảy các tầng lớp Xã Hội. Lôi kéo các đại Môn Phái Võ Gia. Thu phục lợi dụng Tà Ma Ác Đạo. Mua Quan, bán tước. Đưa con cháu tiến sâu vào ngôi vị Chính Quyền nắm bắt mọi thông tin hằng ngày. Có tài tháo vát trăm mưu nghìn kế, chuyển xây tình thế có lợi lần về Mình, bất lợi lần về Địch. Suy đoán hành động đúng lúc. Biết làm cho người ta Mê Hoặc. Biết làm cho người ta Khiếp Sợ. Công Danh Lợi Lộc là thiên đàng của sự ham muốn. Vì mấy ai không ham danh, ham lợi. Tự Do là Thiên Đàng mơ ước của các tầng lớp khốn khổ. Nhất là những giai cấp đang bị đàn áp, bóc lột, sách nhiễu, những tù nhân tội lỗi những kẻ vô gia cư. Vì vậy chỉ cần có danh từ tự do là những giai cấp thống khổ ấy liều chết mà đi theo rồi. Dù đó chỉ là Bánh Vẽ. Dù biết rằng đó chỉ là bánh vẻ Tự Do nhưng cũng hiệu quả không sao tưởng tượng được. Cọng thêm lời ru Công Bằng, Bình Đẳng. Thời dân chúng khốn khổ như uống phải mật ngọt, ai là không mơ ước ai mà không đi theo. Nhưng thật ra chỉ có nền Quốc Đạo Văn Hóa Cội Nguồn mới thật sự có nền Dân Chủ Tự Do, Công Bình Bình đẳng mà thôi, nhưng đã bị thất truyền không còn dấu vết nữa. Nhưng chúng ta chỉ cần chỉ cần có bánh vẽ lấy dân làm gốc cọng với khẩu hiệu Công Bằng Tự Do thời chúng ta đã thành công cướp lấy Bắc Văn Lang xưng Vương rồi hầu hết các tầng lớp dân chúng ủng hộ đi theo chúng ta. Tuy biết đó chỉ là lời nói suông ngôn từ nhưng cũng có hiệu quả như thường dấy lên một phong trào tự trị không có một thế lực nào đánh bại nổi. Vì dễ cở nào không ai theo cũng chịu, nhưng việc khó đến đâu mà có dân chúng theo về thời dời núi lấp sông cũng dễ như trở bàn tay. Vì sao dựng dậy Quốc Tổ cũng như khẩu hiệu Công Bằng Bình Đẳng Tự Do lại hiệu quả như thế? Vì muốn chiếm lấy Bắc Văn Lang không thể không lợi dụng Quốc Tổ, vì chỉ có lợi dụng Quốc mới lôi kéo dân chúng đi theo mình phản lại nhà nước Văn Lang. Với khẩu hiệu Công Bằng, Bình Đẳng chính là thiên đàng mơ ước sự sống của tất cả tầng lớp dân chúng. Nhất là dân chúng đang sống trong khốn cảnh độc tài độc trị của chủ nghĩa phong kiến Thần Giáo. Thử hỏi mấy ai trên thế gian nầy không ưa thích Tự Do Công Bằng Bình Đẳng. Nhưng Có vị Vương nào, vị Chúa nào đêm lại Tự Do, Công Bằng Bình Đẳng đâu. Chỉ trừ Quốc Tổ Vua Hùng mà thôi. Mà chỉ thấy Độc Tài, Độc Trị muốn dân chết là chết, muốn dân sống là sống. Mạnh được yếu thua được là Vua thua là Giặc. Xem đi xét lại Vua với Giặc, Giặc với Vua nào có khác gì. Dân chúng mãi mãi không bao giờ có Tự Do. Không bao giờ có Công Bằng Bình Đẳng thật sự. Chỉ khi nào Quốc Tổ Hùng Vương sống dậy thời may ra mới có Tự Do Công Bằng Bình Đẳng thật sự. Nhưng điều đó sẽ không bao giờ có vì chết rồi có ai sống lại được đâu. Chúng ta chỉ cần dựng dậy Quốc Tổ Vua Hùng có bánh vẽ Tự Do. Bánh vẽ Công Bằng Bình Đẳng thời được Thiên Hạ chiếm lấy Bắc Văn Lang dễ dàng. Nhưng giữ được Thiên Hạ thời khó vô cùng. Quốc Tổ Vua Hùng về trời đã mang theo bí mật về Nhân Quyền Dân Chủ, Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng. Nghe nói Vua Hùng chưa phải là tối cao của nước Văn Lang. Mà tối cao của Nước Văn Lang chính là Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo pháp nền Quốc Đạo Dân Tộc. Nền Quốc Đạo Dân Tộc chính là Văn Hóa Cội Nguồn, chủ Nghĩa Đại Đồng. Quốc Tổ Vua Hùng dùng Văn Hóa Cội Nguồn dựng nước Văn Lang. Không dùng đến bạo lực mạnh được yếu thua, thắng là Vua thua cho là Giặc. Nhưng Văn Hóa Cội Nguồn chủ nghĩa Đại Đồng Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Nhân Quyền đã thất truyền không còn dấu vết gì nữa. Quốc Tổ Vua Hùng gồm thâu Bách Tộc dựng lên Bách Việt Văn Lang theo phương pháp Bất Chiến Tự Nhiên Thành. Có nghĩa Quốc Tổ Vua Hùng hàng phục Thiên Hạ khai dựng lên nước Văn Lang không phải bằng con đường bạo lực. Mạnh được yếu thua thắng là Vua thua là giặc. Mà bằng con đường Văn Hóa Cội Nguồn đêm lại thật sự Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng cho Xã Hội. Nên mới kéo dài Độc Lập lâu như thế. Nhưng phương pháp dựng nước ấy đã thất truyền rồi không còn dấu viết gì nữa. Cha Con chúng ta tuy không có Văn Hóa Cội Nguồn nhưng nổi dậy chiếm lấy bắc Văn Lang không khó. Chỉ cần tạo lên Hiến pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp giả hiệu. Công Bằng, Bình Đẳng, Dân Chủ, Tự Do giả hiệu, thời coi như nghiệp Vương đã thành không ai có thể hiểu được sự cao thâm huyền diệu lừa dối nầy. Mà cứ tưởng Cha Con Ta tôn thờ Quốc Tổ, đêm lại sự Tự Do, Công Bằng Bình Đẳng cho người dân Bách Việt văn Lang. Bách Việt Văn Lang sẽ đi theo chúng ta chống lại nhà nước Văn Lang. Sự lừa dối tinh vi nầy khó mà nhìn thấy. Nếu phát hiện nhìn thấy thời coi như mọi chuyện đã rồi.
Với mưu đồ bất chính Cha Con Doãn Thường lúc nào cũng nói làm theo di chí Quốc Tổ Vua Hùng. Nhưng thật ra đó chỉ là lớp vỏ bọc bên ngoài che đậy dã tâm mưu mô xảo quyệt của mình. Chân giả, giả chân không ai phân biệt nổi một mối họa của nước Văn Lang đã bùng lên, làm cho dân Văn Lang trở thành nồi da nấu thịt, Bách Việt Văn Lang Đồng Bào tàn sát lẫn nhau.
Cha Con Doãn Thường chỉ cần thực thi kế sách. Chiếm lĩnh Bắc Văn Lang một cách dễ dàng không đổ bao nhiêu giọt máu. Với Bánh Vẽ Dân Chủ Tự Do, Công Bằng Bình Đẳng, những Thần chú khẩu hiệu khôn khéo. Không có gì quý hơn Tự Do. Quý hơn Công Bằng Bình Đẳng, Quyền con người được bảo vệ. Quyền được sống, Quyền Tự Do Quyền mưu cầu hạnh phúc. Nhà nước của Dân do dân vì dân. Dân chúng Bách Việt nghe mùi mẩn lao vào như những con thiêu thân.
Cha con Doãn Thường còn phù phép những danh từ nghe thật sướng tai, làm cho Bách Việt Bắc Văn Lang chết mê chết mệt. Tất cả là Do Dân. Tất cả là vì Dân. Tất cả là của Dân. Vương, Quan chỉ là công bộc phục vụ cho Dân. Dân là Chủ. Dân có quyền quyết định tất cả. Vì Dân là cái gốc của Nhà Nước. Dân còn là Nhà Nước còn, Dân mất là Nhà Nước mất. Với những câu Thần Chú như thế Dân Chúng chỉ còn biết đi theo nghe theo mà thôi.
Có thể nói Cha Con Doãn Thường đã hiểu được phần nào pháp thuật trị quốc của Quốc Tổ Vua Hùng. Nhưng không có Văn Hóa Cội Nguồn trong tay mà thôi. Cha Con Doãn Thường chỉ nhờ vào những bánh vẽ Dân Chủ, Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng. Nhờ vào những Thần Chú Tất cả là vì dân. Nhà Nước của Dân. Vương Quan chỉ là Công Bộc của Dân. Nhờ Thần Chú hiệu nghiệm nầy Cha Con Doãn Thường thổi một luồng Ma Thuật vào tâm hồn người dân Bách Việt làm cho người dân Bách Việt Bắc Văn Lang chỉ biết cúi đầu tuân theo.
Cha Con Doãn Thường nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang lập lên đất nước Trung Nguyên. Nước Văn Lang liền bị chia cắt Bắc Nam. Hùng Việt Vương: Tuân Lang đời thứ 13 Hạ Hùng Vương khó chiếm lại Bắc Văn Lang. Dẫn đến mất luôn Bắc Văn Lang rơi vào Nhà Chu Phương Bắc thời Chu Nguyên Vương. Chu Nguyên Vương nhà Chu phong cho Câu Tiễn làm Bá Chủ ở Phương Đông. Câu Tiễn cúi đầu vâng mệnh, Bắc Văn Lang rơi vào Phương Bắc từ đó.
Nói về Việt Tế Gia nghe Doãn Thường phân tích tỉ mỉ về sự lợi hại nổi dậy cướp lấy Bắc Văn Lang phản lại nhà nước Văn Lang với những câu mị chú vô cùng lợi hại liền thức tỉnh thực hiện theo mưu đồ của Doãn Thường. Thực hiện tạo ra những chiếc Bánh Vẽ Tự Do. Bánh Vẽ Công Bằng, Bình Đẳng. Bánh Vẽ Độc Lập Dân Tộc. Tất cả là của Dân. Do Dân. Vì Dân. Nhà Nước Của Dân. Vương, Quan chỉ là Công Bộc của Dân. Để thực hiện mưu đồ Nghiệp Vương Việt Tế Gia tung ra những khẩu hiệu bánh vẽ và những câu Mị Chú đầy hiệu quả. Phải nói là vô cùng hiệu quả. Và thật vậy không ai là không mơ ước đến Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng. Tự Do Mưu Cầu Hạnh Phúc. Không ai là không mê với câu Mị Chú. Tất Cả là của Dân Do Dân. Và Vì Dân. Không ai là không sung sướng khi nghe những câu Mị Chú nầy. Nhà Nước của Dân. Thời không ai là không hết mình. Cố mà xây dựng lên Nhà nước của Dân. Vương, Quan chỉ là Công Bộc của Dân. Nghe rất êm tai, mát lòng Dân Chúng.
Trong khi ấy từ phương Nam đến Phương Bắc. Tất cả người Dân sống dưới thể chế Độc Tài, Độc Trị. Không có một chút Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng gì cả. Vua, Quan, muốn dân chết là chết, muốn dân sống là sống. Nơi nào cũng thấy đàn áp bóc lột không nói là thê thảm. Dưới thể chế Độc Tài Độc Trị, người Dân sống trong thể chế nhà tù rộng lớn. Mất hết tất cả những quyền cơ bản con người. Không khác gì cuộc sống nô lệ.
Bỗng xuất hiện những Bánh vẽ Tự Do Công Bằng, Bình Đẳng. Tất cả là của Dân, Do Dân Và Vì Dân. Nhà Nước của Dân. Vương, Quan là Công Bộc của Dân. Dân là Chủ. Thử hỏi người Dân nào không mê cứ ngỡ đó là Thiên Đàng trần gian, như thời Quốc Tổ dựng nước những quyền con người được thể hiện đầy đủ. Không có cảnh người bóc lột người mà tất cả đều là tự nguyện. Những chiếc bánh vẽ Cha Con Doãn Thường tung ra mà mỗi người Dân khao khát từ lâu. Đã là khát khao thời chỉ cần nghe thấy dù đó chỉ là lời nói liền chạy theo ngay. Cũng như người khác nước miễn cần có nước để được uống đâu còn nghĩ đến nước đục nước trong, chỉ cần nghe có nước liền chạy tới đâu cần nghĩ gì đến sự đánh lừa.
Lòng khao khát Tự Do Công Bằng Bình Đẳng từ lâu. Chỉ cần nghe thấy có sự Tự Do Công Bằng Bình Đẳng ra đời liền chạy theo ngay. Cha Con Doãn Thường đúng là tổ sư của tâm lý học hiểu tình hình dân chúng như hiểu trong lòng bàn tay của mình. Tạo ra một cuộc đánh lừa Bánh Vẽ khôn khéo như vậy. Lại thêm trăm mưu nghìn kế. Trong đó có một kế sách chủ lực là Mua Quan, Mua chức, Mua quyền. Con Cháu dòng họ Việt Tế Gia vốn có nhiều người làm Quan Tri Huyện.
Để thực hiện mưu đồ lớn. Việt Tế Gia bỏ ra vô số vàng, bạc, ngọc ngà, châu báu mua chức Quan Tri Phủ Lạc Giang Giao Châu cho Doãn Thường. Nhờ chức Quan Tri Phủ nầy, Cùng những Quan Tri Huyện trong dòng họ. Bao che cho tất cả mọi hoạt động bí mật. Thậm chí luyện tập quân binh trong Châu Phủ cũng như các Nha Huyện chững bị cho một cuộc nổi dậy cướp lấy Bắc Văn Lang. Thời cơ chín muồi, Bắc Văn Lang đi vào loạn lạc cướp bóc hoành hành nổi dậy khắp nơi. Hơn chín mươi phần trăm Dân Bắc Văn Lang nhanh chóng đi theo phong trào Dân Chủ Tự Do do Cha Con Doãn Thường khởi xướng lãnh đạo. Làm lên một cuộc cách Mạng long trời lở đất. Chiếm lấy Bắc Văn Lang Biến Bắc Văn Lang thành Trung Thổ, Trung Nguyên nước Văn Lang trở thành Nam Bắc phân tranh. Chiến tranh triền miên không ngày chấm dứt. Nguyên do là bởi lạc Cội lạc Nguồn mất đi văn Hóa Cội Nguồn màng u minh xuống nước Văn Lang.
Lạc Nguồn Lạc Cội khổ từ đây
Chinh chiến đao binh kiếp nạn đầy
Nhìn thấy đau lòng sa giọt lệ
Văn Lang khốn khổ xót thương thay
Nồi da nấu thịt vì lạc lối
Tài giỏi làm gì chân chặt tay
Rồng mất Cội Nguồn Rồng hóa Rắn
Dân lạc Cội Nguồn biến đắng cay.
Thời Kinh Dương Vương khai khẩn ra đất Giao Chỉ. Lớn nhỏ dọc theo chín con sông. Giết chết không biết bao là Thuồng Luồng khai sanh ra Nước Xích Quỷ. Trải qua được chín đời. Đến đời thứ mười thời chuyển qua niên đại Hùng Vương. Nước Xích Quỷ mở rộng về Phương Nam. Trở thành Nước Văn Lang. Nước Xích Quỷ trở thành Bắc Văn Lang. QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG KHAI SANH RA NƯỚC VĂN LANG 2959 trước công nguyên. Nối truyền được 40 đời. Cộng thêm đời Quốc Tổ dựng nước là 41 đời. 23 đời Thượng Hùng Vương. 18 đời Hạ Hùng Vương. Đến thời Hạ Hùng Vương thứ 13, HÙNG VIỆT VƯƠNG, TUÂN LANG 569 đến 506 trước công nguyên.
Vào thời điểm 545 trước công nguyên. Cha Con Doãn Thường nổi lên cướp lấy Bắc Văn Lang. Biến Bắc Văn Lang thành Trung Thổ Trung Nguyên. Xưng Vương ở giữa. Bắc Văn Lang từ đó dần dần biến mất. Những di tích Văn Hóa Văn Lang bị xóa đi. Thay thế vào đó những di tích Văn Hóa mới. Văn Hóa Trung Nguyên Trung Thổ. Thậm chí cả tên núi non, đất đai, sông, hồ, cũng cải đổi thành tên mới. Ở vào thời Kinh Dương Vương. Thời Sông Trường Giang Chính Là Sông Dương Tử. Chi nhánh ngược lên phía Bắc của sông Dương Tử là Sông Trường. Khi sông Dương Tử chuyển thành sông Trường Giang. Thời chi nhánh phía Bắc sông Trường Giang, không còn gọi là Sông Trường mà gọi là Sông Hán. Sông Kinh, Sông Âu, Sông Lạc đều ở Bắc Văn Lang phía nam sông Trường Giang.
Nói tóm lại: Phương Bắc xâm chiếm đất Văn Lang tới đâu thời những di tích Văn Hóa Văn Lang bị xóa sạch. Thay vào đó là những Văn Hóa mới theo Phương Bắc. Nên sử sách Trung Quốc không ghi chép nguồn gốc nước Văn Lang. Đây là một âm mưu lớn lâu dài Phương Bắc hầu nuốt trọn nước Văn Lang.
* * *
PHẦN 5
Phương Bắc thời Nhà Chu. Hết thời hưng thịnh Nhà Tề thôn tính hàng phục các nước. Đến thời Nhà Tấn hùng mạnh chinh phục các nước. Từ thời Tấn Huệ Công xuống tới Tấn Hoài Công. Tấn Mục Công. Tấn Văn Công. Tấn Cảnh Công. Tấn Lệ Công. Tấn Điệu Công. Tấn Bình Công. Tấn Chiêu Công. Thời Nhà Chu Phương Bắc cũng đã trải qua nhiều đời Vua. Chu Vũ Vương. Chu Thành Vương. Chu Mục Vương. Chu Di Vương. Chu Lệ Vương. Chu Tuyên Vương. Chu Ung Vương. Chu Hoàn Vương. Chu Trang Vương. Chu Ly Vương. Chu Huệ Vương. Chu Tương Vương. Chu Định Vương. Chu Giãn Vương. Chu Linh Vương đến Chu Cảnh Vương Nhà Chu. Thời Phương Bắc xảy ra không biết bao nhiêu là chiến tranh biến loạn, binh đao máu lửa. Hết thời kỳ Tề hưng thịnh. Đến thời kỳ Tấn ra oai các nước đánh nhau chiến tranh loạn lạc kéo dài mấy trăm năm dân chúng Phương Bắc điêu linh khắp nơi. Trong cảnh binh đao máu lửa Vua, Quan vơ vét thậm tệ phục vụ cho chiến tranh. Dân chúng đói rét cơ cực khốn cùng. Không ít dân chúng bỏ Phương Bắc. Bỏ xứ ra đi lánh nạn vào Phương Nam. Tức là Bắc Văn Lang sanh sống. Có thời điểm dân chúng Phương Bắc chạy lánh nạn chiến tranh di cư vào Bắc Văn Lang, chỉ trong vòng bảy ngày lên đến cả vạn người. Phải nói con số di cư vào Bắc Văn Lang mỗi ngày mỗi kinh khủng. Đến nổi chính quyền địa phương Châu, Quận, Huyện. Giải quyết nạn di cư không nổi, đành để cho phần lớn sống sanh sống vô gia cư tràn lan khắp Bắc Văn Lang. Làm cho Bắc Văn Lang đi vào hỗn loạn. Ở vào thời điểm nầy.
Hùng Việt Vương, Tuân Lang. Lên Ngôi Quốc Vương Hoàng Đế Trị Vì Thiên Hạ Thay Cha Là: Hùng Vũ Vương, Đức Hiền Lang. 569 đến 506 trước công nguyên. Đến 545 thời Bắc Văn Lang có biến động. Cha Con Doãn Thường nổi dậy. Cùng dân chúng Bách Việt Văn Lang nổi dậy làm lên một cuộc cách mạng long trời lở đất.
Cha Con Doãn Thường chiếm lấy hai phần Bắc Văn Lang. Như Bắc Giang Giao Châu. Lạc Giang Giao Châu. Dương Giang Giao Châu. Quý Linh Giao Châu. Xích Linh Giao Châu. Hợp Giao Châu. Kinh Giang Giao Châu. Động Đình Châu. Diêm Hồ Châu. Giao Giao Minh Châu. Ninh Giao Châu. Tam Giang Châu Thượng Tây giang Châu. Uất Lang Việt Châu. Lâm Giang Tây Châu. Quế Giang Giao Châu. Liễu Giang Châu. Lạc Trung Châu. Hạt Linh Châu. Kiến Giao Châu. Phúc Hải Châu. Lâm Giang Tây Châu. Định Giao Châu.
Cùng thời điểm ấy Tây Bắc Văn Lang Dân Chúng nổi dậy chiếm lấy Cương Châu xưng Vua Cương Việt. Cướp lấy Ngô Châu xưng là Ngô Việt. Cướp lấy Di Châu xưng Vua Di Việt. Cướp lấy Liêu Châu xưng là Liêu Việt. Cướp ấy Hung Châu xưng là Hung Việt. Cướp Lấy Lưu Châu xưng là Lưu Việt. Cướp Lấy Phù Châu xưng là Vua Phù Việt. Cướp Lấy Lỗ Châu xưng là Lỗ Việt. Cướp Lấy Mân châu xưng là Vua Mân Việt. Cướp lấy Ngung Châu xưng là Ngung Việt. Cướp lấy Nô Châu xưng là Vua Nô việt.
Cũng cùng thời điểm ấy Đông Bắc Văn Lang Dân Chúng nổi dậy chiến Đông Hải Châu xưng là Vua Đông Việt. Chiếm lấy Đông Bắc Hải Châu xưng là Vua Hải Việt. Chiếm lấy Nam Hải Giao Châu xưng là Vua Giao Việt. Dạ Loan Châu xưng Loan Việt. Chiếm lấy Thất Khê Châu xưng Vua Khê Việt. Chiếm lấy Đình Hải Châu xưng Vua Điền Việt. Chiếm lấy Cái Hải Châu xưng Vua Lạc Việt. Chiếm lấy Hạ Giang Châu xưng Vua Lang Việt. Thế dân nổi dậy như nước vỡ bờ chiếm lấy toàn bộ Bắc Văn Lang.
Doãn Thường là nhà Quân Sự Chính Trị tài năng lỗi lạc hiểu rõ tình thế xã hội. Hiểu rõ nguyện vọng của dân. Hiểu rõ tâm lý của dân. Và cũng hiểu rõ nói láo là mẹ đẻ của chính trị dẫn đến thắng lợi thành công. Với câu khẩu hiệu tất cả đấu tranh là vì Dân giải phóng bóc lột cho Dân. Giải phóng nô lệ cho Dân. Đêm Lại quyền sống quyền tự do cho Dân. Ai cũng có đất ruộng để cày. Lập lên Nhà Nước của Dân do Dân vì Dân. Quân Đội của Dân Vì dân mà chiến đấu vì dân mà quên mình, bảo vệ độc lập tự chủ xóa bỏ nô lệ. Lập lên một Xã Hội, Công Bằng, Bình Đẳng, Dân Chủ, Văn Minh. Thoát khỏi ách Độc Tài Độc Trị, Thoát khỏi thể chế xin cho, thoát khỏi tham quan tàn bạo. Lập lên nước Việt Trung Nguyên dân giàu nước mạnh thay thế cho nhà nước Văn Lang. Nhà Nước độc tài độc trị. Đi ngược lại di chí Quốc Tổ Vua Hùng. Tất cả ngôn từ văn từ như một liều thuốc bổ. Dân chúng theo Cha Con Việt Tế Gia như nước vỡ bờ.
Ngày 3 tháng 2 năm 545 trước công nguyên Cha Con Doãn Thường triệu tập các Vua Việt hội nghị tại Đất Cối Kê nơi đền thờ Vua Vũ từ thời Nhà Hạ đến Phương Nam đến Đất Cối Kê lập nghiệp. Hơn mấy mươi Vua Việt ở Đông Bắc Văn Lang. Tây Bắc Văn Lang, đều tới dự hội đông đủ. Gọi là Hội Liên Minh Việt Bắc Văn Lang. Nơi Đất Cối Kê đền Thờ Vua Vũ. Doãn Thường như một vị anh hùng biện tài vô ngại thuyết phục các Vua Việt mới nổi lên đòi tự trị liên minh thành một khối. Trở thành một Nhà Nước mới. Nhà Nước Trung Thổ Việt Trung Nguyên.
Bài hùng biện của Doãn Thường trước các Vua Việt như sau:
Thưa các chư vị Anh Hùng chúng ta là những người khát khao Tự Do, khát khao Công Bằng, Bình Đẳng. Giành lại Quyền Sống. Quyền Tự Quyết. Quyền Tự Do Mưu Cầu Hạnh Phúc. Xây dựng lên một Nhà Nước Trung Lập Nhà Nước Của Dân, Do Dân, và vì Dân. Loại bỏ chế Độ Độc Tài Độc Trị. Sống Theo Hiến Pháp, Luật Pháp. Ai cũng như ai Bình Đẳng. Như thời Quốc Tổ Vua Hùng dựng lên Nhà Nước Văn Lang. Các Vua Hùng thời nay không làm theo lời dạy Quốc Tổ. Trở thành Nhà Nước Độc Tài Độc Trị. Nhà Nước không lấy dân làm gốc. Không Ai sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Mà sống theo thể chế Độc Tài Độc Trị, thể Chế của sự xin cho. Thể chế của sự bóc lột thậm tệ. Không làm đúng những gì Quốc Tổ Vua Hùng đã dạy. Chúng ta là con cháu Tiên Rồng. Chúng ta đi theo lời dạy Quốc Tổ Vua Hùng. Sống Tự Do Công Bằng Bình Đẳng. Không phải sống dưới ách thống trị cường hào nô lệ. Muốn thực hiện một Nhà Nước Trung Lập Việt Trung Nguyên Tự Do. Công Bằng. Bình Đẳng, Công Minh như thời Quốc Tổ Vua Hùng. Thời chúng ta phải liên minh đoàn kết bầu lên Minh Chủ Việt Vương. Lập lên Nước Việt Trung Nguyên. Nam Có Hùng Vương. Bắc Có Chu Vương. Chính Giữa Có Việt Vương. Cách đây hơn ba trăm năm mươi năm về trước. Phương Nam ở vào thời Hùng Huy Vương. Phương bắc ở vào thời Chu Di Vương. Bắc Văn Lang cũng đã nổi lên đòi tự trị chiếm lấy các Châu Bộ. Hình thành lên cả trăm Vua Việt nhưng rốt cuộc đã bị thảm bại bị trước thế lực xâm lược Ân Mao Vương, Hung Di Vương. Hồ Vương. Thôn tính giết sạch. Nếu còn sót vị Vua Việt nào thời Hùng Huy Vương cho quân truy quét diệt tận gốc. Đây là bài học cho chúng ta. Với địa thế Bắc Văn Lang trở thành Nước Việt Trung Thổ Trung Nguyên. Đất đai phì nhiêu rộng lớn. Sông Hồ Kinh Rạch chằng chịt. Dân số đông không kém Nam – Bắc là mấy. Chúng ta sẽ có một đội quân hùng mạnh Nam đánh bại thế lực Hùng Vương. Bắc đánh bại thế lực Chu Vương. Vì sao lại nắm chắc như thế. Vì Thế lực Hùng Vương đang trên đà suy yếu. Tham Quan mọc lên như nấm. Mạnh ai nấy lo túi riêng của mình. Nhất là đánh mất Văn Hóa Cội Nguồn không làm đúng như những gì lời dạy Quốc Tổ. Đánh mất lòng tin của muôn dân. Tuy Thế lực Hùng Vương còn rất mạnh. Nhưng chúng ta không phải là ngoại xâm. Mà là những người người Dân bất mãn với thể chế Độc Tài Độc Trị không làm theo lời dạy quốc Tổ Vua Hùng. Trở thành Nhà Nước Độc Tài Độc Trị không khác gì Nhà Nước Phương Bắc những Vương, Quan, tham lam tàn bạo. Đã đánh mất lòng tin của Dân Chúng. Nên Dân Chúng không ít người bỏ Hùng Vương mà theo chúng ta. Còn Phương Bắc Nhà Chu cũng đã đến thời suy yếu Con Cháu Nhà Chu Tàn Sát Lẫn Nhau. Không kể gì tình anh em ruột thịt. Chỉ biết tranh giành địa vị quyền lực. Ăn nuốt lẫn nhau. Các trấn Chư Hầu cũng chẳng khác chỉ tranh hùng tranh Bá. Mạnh được yếu thua. Thắng là Vua thua là Giặc. Lúc nầy Sở Linh Vương đang thời hưng thịnh tranh hùng tranh Bá dữ dội. Các nước Phương Bắc lo sợ luôn ở vào thế chiến tranh. Sở Linh Vương cậy thế hùng cường đánh hết nước nầy đến nước khác chiến tranh dữ dội. Con cái Sở Vương tranh ngôi thôn tính lẫn nhau. Sở Bình Vương giết chết ba anh lên ngôi càng thêm hỗn loạn. Nói chung Phương Bắc chiến tranh tàn khốc ai lo phận nấy khó mà làm gì được chúng ta. Thời cơ đã giúp chúng ta làm lên nghiệp lớn. Nếu Chúng Ta biết đoàn kết lập lên một Nhà Nước Việt Trung Nguyên hùng mạnh. Trong tương lai một là nuốt trọn nước Văn Lang. Hai là nuốt trọn Phương Bắc. Làm lên một lịch sử Trung Nguyên hào hùng long trời lở đất.
Các Vua Việt mới nổi lên tự trị nghe có lý nếu không chung nhau đoàn kết thành một Nước Việt Trung Thổ Trung Nguyên hùng mạnh thời phía Bắc sẽ bị Ngô, Sở, đánh vào thôn tính. Phía Nam Vua Hùng đánh ra tiêu diệt Chẳng khác gì thời Phù Đổng Thiên Vương cách đây hơn ba trăm năm mươi năm về trước. Hơn năm mươi Vua Việt muốn tồn tại thời phải đoàn kết đại đoàn kết như một bó đũa khổng lồ không ai bẻ nổi. Sự nhận thức về sự tồn tại, các Vua Việt đồng tôn Doãn Thường lên làm Việt Vương.
Doãn Thường khôn khéo nói:
Mỗ Tôi tuy được các Đại Anh Hùng tín nhiệm tôn phong lên làm Việt Vương. Nhưng Mỗ tôi giới thiệu một người tài trí có công lớn trong cuộc khởi nghĩa thắng lợi nầy đó là Việt Tế Gia (Cha của Doãn Thường).
Thế Là Việt Tế Gia được các Đại Anh Hùng toàn Bắc Văn Lang suy tôn lên Làm Việt Vương. Đầu Mùa Thu 545 Nhà nước Việt Trung Nguyên ra đời. Tạm Thời sử dụng Kinh Đô Kinh Dương Vương làm Kinh Đô Trung Thổ Trung Nguyên. Việt Vương Tế Gia nhờ có Doãn Thường cũng cố Triều Chính nhanh chóng. Việt tế Gia lập Doãn Thường làm Thế Tử nối ngôi Vương.
Gian đảng âm mưu cướp đất rồi
Vẽ vời bịa chuyện cứu dân ôi
Văn Lang miền Bắc còn đâu nữa
Xưng Vương xưng Chúa trổ hung tôi
Khổ ải trùm lên dân khốn khổ
Lạc Nguồn lạc Cội Cáo Sói xơi
Nước non, non nước đầy binh lửa
Văn Lang máu đổ cảnh đầu rơi.
* * *
PHẦN 6
Nói về Con Cháu Triệu Xuyên. Triệu Thuẫn liên quan đến tội giết Vua. Bằng trốn vào Nam đến Bắc Văn Lang sanh sống trải qua nhiều đời trở thành dân Văn Lang Hàng năm đều dự hội đồng hương nơi đền thờ Vua Vũ nên được Con Cháu Vua Vũ giúp đỡ có người trở thành Triệu Bá Gia giàu có nhất nhì Bắc Văn Lang.
Con Cháu Triệu Xuyên đến đời Triệu Phàn thời giàu có nổi tiếng Bắc Văn Lang trở thành Triệu Bá Gia. Có ba người con tài năng vô song Văn Võ song toàn. Triệu Quân. Triệu Hàn. Triệu Anh. Việt Vương Tế Gia phong Triệu Phàn Bá Gia chức Thượng Quân Nguyên Soái thống lãnh 10 vạn quân cùng ba người con làm chủ Tướng trấn giữ Đông – Nam Trung Thổ Trung Nguyên tức là Đông, Nam Bắc Văn Lang chống trả lại thế lực Hùng Việt Vương, Tuân Lang, đời thứ 13 Hạ Hùng Vương.
Việt Vương Tế Gia phong cho Triệu Công Con Cháu nhiều đời Triệu Thuẫn. Chức Trung Quân Nguyên Soái thống lãnh 10 vạn quân cùng hai Con phong làm Chủ Tướng. Triệu Côi. Triệu Chi. Trấn giữ Tây Nam Trung Thổ Trung Nguyên. Tức là Tây Nam Bắc Văn Lang.
Việt Vương Tế Gia phong Phạm Đỗ Chinh chức Tân Quân Nguyên Soái thống lĩnh 10 vạn quân. Cùng hai phó Chủ Tướng là Chũng Hầu. Giá Chữ. Trấn giữ chánh Nam Trung Nguyên, tức là Chánh Nam Văn Lang.
Việt Vương Tế Gia phong con Chư Hạo, Chư Mạnh Hùng Trung Quân Nguyên soái, cùng hai con Chư Kế Dĩnh. Chư Tôn Quá làm Đại Tướng thống lãnh 10 vạn quân trấn giữ Tây Bắc Trung Nguyên tức là Tây Bắc Văn Lang.
Việt Vương Tế Gia phong Linh Việt Hàn Tân Quân Nguyên Soái. Thống Lãnh 10 vạn quân cùng hai Con là Linh Cô Phù. Linh Quang Dũng. Trấn giữ Trung Bắc Trung Nguyên, tức là Trung Bắc Văn Lang.
Việt Vương Tế Gia phong cho Thường Thọ Quá chức Thượng Quan Đại Phu thống lĩnh 7 vạn quân, cùng con là Thường Thọ Chí trấn giữ Đông Bắc Trung Nguyên tức là Đông Bắc Văn Lang.
Việt Vương Tế Gia phong cho tất cả các Vua Việt. Tây Trung Nguyên. Đông Trung Nguyên, tức là Tây Văn Lang Đông Văn Lang thành các Trấn chư hầu dưới sự điều khiển Nhà Nước Việt Trung Nguyên. Thế là nhà nước Việt Trung Nguyên ra đời bài bản vô cùng hùng mạnh.
Với chính sách đổi mới Bắc khác Nhà Chu. Nam khác Vua Hùng. Lập lên một nhà nước Việt Trung Nguyên mới lạ. Nhà Nước lập lên bằng danh từ bóng bẩy. Sống trên danh từ nói một đường làm một nẻo. Nói Tự Do nhưng lại quản lý cuộc sống con người chặt chẽ. Nói lấy dân quyền làm gốc nhưng thật ra dân không có cái quyền gì cả. Nói tất cả là của dân nhưng thật ra tất cả là của Nhà Nước dân trắng tay không ai có một tất đất nào làm công khoáng trắng của Nhà Nước Độc Quyền Độc Tài. Độc Trị của một nhóm người. Người dân chỉ là công cụ nô lệ. Có thể nói Nhà Nước Việt Trung Nguyên là Nhà Nước lạm dụng danh từ sống trên danh từ. Nhà Nước ảo không có gốc Nhân Quyền chỉ tạo lên Bánh Vẽ Dân Chủ Tự Do, bánh vẽ lấy Dân Làm Gốc. Lừa đảo lòng ham muốn của dân. Đem tất cả cái lợi về cho dân nhưng toàn là những bánh vẽ không bao giờ ăn được chỉ nghe cho sướng tai. Chỉ thấy trên lời nói. Trên giấy tờ thế mà cũng tạo lên sự chú ý Dân Chúng Phương Bắc cũng như Phương Nam.
Một số lớn Dân Chúng cả hai phương Nam – Bắc cho rằng Nhà Nước Việt Trung Nguyên ra đời mới thật sự là Nhà Nước của Dân do Dân và vì Dân. Và Họ muốn theo về Nhà Nước Việt Trung Nguyên. Vì thế nhà nước Việt Trung Nguyên càng về sau càng lớn mạnh sự đánh lừa khôn khéo nầy cũng đem lại những kết quả ban đầu. Nhưng về sau Dân Chúng phát hiện hiểu ra Tự Do, Công Bằng Bình Đẳng, Dân Chủ, Nhân Quyền, Dân là cái gốc của Nhà Nước. Nhà nước của Dân do Dân vì Dân. Tất cả chỉ là chiếc Bánh vẽ để lừa. Nhưng khi hiểu ra thời tất cả đã muộn. Cha con Doãn Thường cũng chẳng khác gì các Vua Nhà Chu. Các nước Phương Bắc Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị. Quản lý gắt gao mọi sự sống của Dân quản lý chặt chẽ hơn nữa. Tất cả người dân như đang sống trong một nhà tù lớn. Không có tự do hay Công Bằng, Bình Đẳng, Dân quyền gì cả. Mà tất cả sự sống của dân chỉ là sự sống nô lệ. Trước đây nô lệ cho những Địa Chủ, Phú Nông. Nay Toàn dân trở thành nô lệ cho Nhà Nước. Nhà Nước Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị. Nhà Nước của sự xin cho bóc lột sức lực của muôn dân một cách khéo léo không Nhà Nước nào bằng. Như con đỉa hút máu người mà không thấy đau.
Khi dân biết được mưu đồ khai dựng sự nghiệp Việt Vương của Cha Con Doãn Thường, thời mọi chuyện đã rồi. Ý Vua là Ý Trời thuận thời sống, chống là chết. Tất cả tài sản của Dân Chúng chính là tài sản của Nhà Nước. Khi cần thời Nhà Nước lấy. Với một thể chế xin cho Nhà Nước Việt Trung Nguyên làm gì thì làm tàn bạo còn hơn Nhà Nước Văn Lang ở các thời cuối Hậu Hùng từ thời Hùng Việt Vương, Tuân lang trở xuống. Cũng như Phương Bắc Thời Mạc Nhà Chu.
Nói chung Phương Bắc. Phương Nam. Việt Trung Nguyên, cá mè một lứa cũng Độc quyền. Độc Tài, Độc Trị chẳng khác gì nhau. Tham quan tàn bạo. Thắng là Vua, thua là Giặc xem đi xét lại Giặc với Vua cũng chẳng khác gì nhau. Nhà Nước Việt Trung Nguyên không tồn tại được lâu, như triều đại Hùng Vương kéo dài độc lập 2701 năm. Trong khi Cha Con Doãn Thường cướp lấy Bắc Văn Lang lập lên nhà nước Trung Nguyên độc lập tự chủ chỉ trên dưới 70 năm.
Đến thời Việt Vương Câu Tiễn tùng phục Nhà Chu năm 496 trước công nguyên. Vua Nguyên Vương Nhà Chu, phong Bá cho Việt Vương Câu Tiễn. Trở thành (Việt Bá Vương) làm chủ Phương Đông. Việt Vương Câu Tiễn cúi đầu dâng Việt Trung Nguyên cho Nhà Chu.
Bắc Văn Lang trở thành đất Phương Bắc. Tức thời Bắc Văn Lang nhà nước Việt Trung Nguyên lại chuyển sang một giai đoạn mới. Giai đoạn Trung Quốc trở thành trấn chư hầu Nhà Chu. Việt Trung Nguyên trở thành đất Bắc nhập về Phương Bắc. Bắc Văn Lang mất từ đây.
Nước Văn Lang chỉ còn lại Miền Trung, Miền Nam. Không cách gì lấy lại Bắc Văn Lang được nữa triều đại Việt Vương Tế Gia. Đến thời Nhà Tần thời coi như hủy diệt không còn. Thay thế vào đó là Triệu Việt Vương.
Nói tóm lại lịch sử Bắc Văn Lang bị Cha Con Doãn Thường cướp, trở thành Trung Thổ Việt Trung Nguyên đến thời Việt Vương Câu Tiễn, tùng phục Nhà Chu, Bắc Văn Lang Trung Nguyên nhập về Phương Bắc chuyển thành Trung Quốc. Tất cả những di tích Văn Hóa. Cũng như danh nhân những người có công với đất nước Văn Lang bị xóa sạch. Thay thế vào đó là Văn Hóa Phương Bắc. Thờ phụng những người có công ăn cướp Bắc Văn Lang lập lên nhà nước Việt Trung Nguyên mà thôi. Chỉ còn sót lại những di tích Viêm Đế Thần Nông.
Ông Tổ sáng lập lên nền Văn Minh lúa nước. Từ năm đời niên đại Viêm Đế Thần Nông. Truyền xuống niên đại Kinh Dương Vương chín đời. Đến đời thứ mười thời chuyển sang niên đại Hùng Vương 41 đời. Thượng Hùng Vương 23 đời. Hạ Hùng Vương 18 đời.
Cha Con Doãn Thường cướp lấy Bắc Văn Lang biến thành Trung Thổ Việt Trung Nguyên. Thời không những Văn Hóa truyền thống Văn Lang bị xóa sạch. Mà những di tích 41 đời Hùng Vương. Cũng như các Công Thần có công chống ngoại xâm giữ nước, cũng đều bị xóa sạch, thay thế vào đó là Văn Hóa Trung Nguyên mới sáng lập. Cũng như những danh nhân có công cướp lấy Bắc Văn Lang lập lên nhà nước Trung Nguyên.
Cha con Doãn Thường làm như thế là làm cho Bắc Văn Lang sẽ dần dần biến mất không còn tồn tại nữa. Đến thời Việt Vương Câu Tiễn tùng phục Nhà Chu theo về Phương Bắc. Thời Trung Nguyên Bắc Văn Lang lại tiếp tục xóa sạch những di tích Văn Lang còn sót lại. Di Tích Chín đời Kinh Dương. Chỉ còn sót lại Thời Viêm Đế Thần Nông. Kể từ khi nhà nước Việt Trung Nguyên ra đời. Thời nước Văn Lang chỉ còn Trung Văn Lang, Nam Văn Lang mà thôi.
Về sau có thơ rằng:
Doãn Thường cướp lấy Văn Lang
Xưng Vương xưng Đế nối nhau đời đời
Nào hay Phương Bắc nuốt rồi
Cáo già đã giả con trời còn chi
Tiếng đời để lại bia ghi
Phản non hại nước mấy khi trường tồn
Thảm thương con cháu Tiên Rồng
Lạc Nguồn Lạc Cội mắc vòng khốn nguy
Thiên Đàng đã mất lối đi
Hồn sa Địa Phủ Âm Ti nghìn trùng.
Khi cha con Doãn Thường lên ngôi Việt Vương biến Bắc Văn Lang thành Trung Thổ Việt Trung Nguyên. Thời những di tích Văn Hóa Văn Lang từ thời Kinh Dương Vương đến thời Đại Hùng Vương đều xóa sổ không cho dân chúng nhắc tới nữa. Thay thế vào đó một số di tích Văn Hóa mới. Văn Hóa thời đại Trung Nguyên. Thờ phụng những người có công nổi dậy chiếm lấy Bắc Văn Lang. Thay đổi một số tên sông. Chẳng hạn như sông Dương, đổi tên thành sông Trường Giang. Một số tên núi. Thay đổi tên Châu. Bộ. Thay đổi tên Kinh Đô. Kinh Đô Xích Quỷ thành Kinh Đô Trung Nguyên. Nói chung là thay đổi hầu hết, danh từ mới thay cho danh từ cũ.
Văn Hóa Truyền Thống Văn Lang dần dần biến mất không còn. Đều đáng nói ở đây Cha Con Doãn Thường biến Nước Xích Quỷ, Bắc Văn Lang thành Trung Thổ Trung Nguyên. Xảo ngôn Truyền Bá đất Trung Nguyên là do công lao Vua Vũ khai lập ra. Thế hệ đời sau mắc lừa cho rằng công lao Vua Vũ, thực là to lớn. Dẫn nước chín con sông, làm cho chín Châu có thể ở được. Con cháu Vua Vũ. Đến thời Việt Vương Câu Tiễn, đánh bại nước Ngô. Trả đất lại cho nước Sở. Trả đất lại cho nước Lỗ. Mà nước Ngô đã chiếm lấy.
Việt Vương Câu tiễn hòa hảo với các trấn chư hầu đất Bắc. Như Tề. Tấn. Vân Vân... cùng một số trấn chư hầu khác hội họp ở Từ Châu. Tùng phục theo Nhà Chu. Vua Nguyên Vương Nhà Chu. Phong Cho Việt Vương Câu Tiễn VIỆT BÁ VƯƠNG làm chủ phương Đông. Việt Vương Câu tiễn cúi đầu dâng Việt Trung Nguyên cho Phương Bắc. Tức thời đất việt Trung Nguyên lại chuyển sang một giai đoạn mới không còn độc lập tự trị nữa mà trở thành TRUNG QUỐC.
* * *
PHẦN 7
Nói về Cha Con Doãn Thường từ khi lên ngôi Vương luôn cũng cố bộ máy Độc Tài Độc Trị. Một cách hiệu quả. Kiểm soát quản lý vận hành chặt chẽ vững bền không sơ sót. Luôn luôn phát huy sức mạnh cơ sở hết đêm cái lợi ảo nầy ra đến cái lợi ảo khác cuốn hút người dân chạy theo. Tất cả cái lợi ảo đều từ chính sách ban ra nhưng không bao giờ thực hiện được. Chỉ đọc ra cho Dân nghe sướng tai mà thôi.
Cha Con Doãn Thường mở ra thật nhiều trường học nhưng có học mà không đi vào cuộc sống học toàn Văn Từ đồi trị có lợi cho việc mưu phản lại nhà nước Văn Lang chẳng ra đâu, càng học càng dốt. Chuyên moi móc những cái xấu của Vua Quan nhà nước Văn Lang, tán tụng việc làm phản loạn của mình cho là việc làm chính nghĩa.
Những ai nói lên sự thật liền bị chém đầu hoặc bị cô lập cho đến chết. Tuy mở rộng con đường giáo dục nhưng để ca tụng cuộc cách mạng thần thánh của mình. Mở trường lớp dạy dân nhiều nhưng học toàn là những chuyện mê tín những cuộc tình lãng mạng trai gái. Hầu làm cho dân chúng quên truyền thống dân tộc anh linh hơn mấy nghìn năm.
Nói tóm lại có học nhiều nhưng không đâu vào đâu cả càng học nhiều thời càng mờ mịt không có tôn chỉ mục đích nào cả. Các vị tu Tiên trên núi thường nói (Chính sách ngu Dân đã được thực hiện). Dân Bắc Văn Lang dần dần quên Cội quên Nguồn, nhưng cơ trời đã thế khó mà cứu vãn được. Tương Lai của người Dân Bắc Văn Lang. Không phải đi đến no cơm ấm áo. Mà là sống trên văn từ bóng bẩy. Bằng cấp hư danh. Làm mê hoặc lòng ham muốn của con người mà thôi.
Có thể nói không có Nhà nước nào họp hành nhiều như Nhà Nước Việt Trung Nguyên hầu như ngày nào cũng hộp. Mục đích là để bôi trơn bộ máy. Khởi động liên tục đè bẹp những ý tưởng phản loạn. Diệt mầm họa trong trứng nước không cho có cơ hội suy nghĩ đúng sai tạo phản. Cha Con Doãn Thường tạo ra một thể chế kiểm soát gắt gao chặt chẽ không những quản lý về vật chất không cho dân chúng giàu sang. Mà còn quản lý cả tinh thần ý nghĩ của dân chúng. Cha con Doãn Thường thực hiện chính sách như vậy, cứ nghĩ làm như thế Nhà Nước Trung Nguyên sẽ được bền vững lâu dài. Nào hay đâu lại dẫn đến mau sụp đổ.
Cha Con Doãn Thường nào hiểu, sự tồn tại của chế độ chính là phát triển Tiến Hóa Xã Hội. Sự tồn tại của Xã Hội chính là cái mới thay thế cho cái cũ. Sự tồn tại của Nhà Nước chính là Công Bằng Bình Đẳng. Sự bảo thủ độc tài độc trị, kìm hãm sự phát triển xã hội, kìm hãm quyền tự do của con người, chính là đi vào con đường tự sanh tự diệt. Không cần đánh đổ nó cũng tự sụp đổ. Sự tiến hóa loại bỏ cái cũ lỗi thời, tiến đến cái mới non trẻ, tiến hóa loại bỏ tự nhiên, không có sự mâu thuẫn xung đột nào cả đó chính là sự trường tồn văn minh xã hội. Sự củng cố Độc Quyền. Độc Tài, Độc Trị, dù cho có tài tình tinh vi đến đâu cũng dẫn đến sự xơ cứng của thể chế bảo thủ Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị dẫn đến Nhà Nước Trung Nguyên đi vào xóa sổ. Chỉ khi nào thật sự đi vào quy luật tự nhiên cái mới liên tục phát triển thay cho cái cũ lỗi thời mới đi vào tồn tại lâu dài.
Cha Con Doãn Thường không những không làm được điều đó có thể nói là chưa phát hiện ra điều đó. Mà chỉ tạo ra những chiếc bánh vẽ lừa gạt dân chúng mà thôi. Nên không thể trụ vững lâu dài được cuối cùng cũng bị Phù Sai đánh bại. Về sau Câu Tiễn tuy diệt được Phù Sai nhưng cúi đầu trước Nhà Chu. Được Nhà Chu Chu Nguyên Vương phong Bá. Bá Vương Câu Tiễn Trung Nguyên không còn tự chủ Độc Lập được nữa thuộc về Phương Bắc. Việt Trung Nguyên chuyển sang một giai đoạn mới giai đoạn trở thành Trung Quốc. Việt Trung Nguyên sát nhập về Phương Bắc thời Chu Nguyên Vương hàng năm phải chịu sự cống nạp cho Nhà Chu. Bắc Văn Lang coi như biến mất không còn từ đây.
Đây nói về nơi Kinh Đô Văn Lang. Ngày 20 tháng 3, 545 trước công nguyên Hùng Việt Vương, Tuân Lang, đời thứ 13 Hạ Hùng Vương vô cùng tức giận khi nghe tin Cha Con Doãn Thường nổi dậy cướp lấy Bắc Văn Lang.
Trước Vương Triều Hùng Việt Vương quát hỏi triều thần:
Cha Con Doãn Thường là ai mà ghê gớm như vậy nổi loạn chiếm lấy Bắc Văn Lang.
Hầu Tôn Vương nghe Quốc Vương hỏi liền bước ra báo cáo rằng:
Muôn tâu Quốc Vương bệ Hạ Cha Con Doãn Thường là con cháu 31 đời Vua Vũ thời Nhà Hạ. Di cư đến Huyện Cối Kê Lạc Giang Giao Châu sanh sống. Nhập cư thành dân Bách Việt Văn Lang, trở thành dân Văn Lang chính thống. Giàu có thuộc bậc nhất Bắc Văn Lang. Doãn Thường làm quan đến chức Quan Tri Phủ Lạc Giang Giao Châu. Dòng họ Vũ có Âm Mưu chiếm đoạt Bắc Văn Lang từ lâu, nhưng không mấy ai phát hiện được. Khi phát hiện được thời đã bị Cha Con Doãn Thường nổi dậy cướp mất Bắc Văn Lang rồi.
Hùng Việt Vương nghe xong nổi giận đùng đùng hét lớn:
Lũ cướp nước hại dân hại nước kia phải tiêu diệt cho bằng được không để cho một tên sống sót. Các Khanh hãy hiến kế cho Trẫm để Trẫm nhanh chóng cho người quét sạch Cha Con Doãn Thường trừ hậu họa.
Hầu Tôn Vương nghe xong bằng tâu rằng:
Muôn Tâu Quốc Vương Bệ Hạ. Cha Con Doãn Thường đã có âm mưu dã tâm chửng bị từ trước lôi kéo dân chúng nổi dậy chiếm lấy Bắc Văn Lang thế lực rất mạnh. Trung Văn Lang đang trong cơn hỗn loạn không phân biệt được phải trái trắng đen. Có người cho rằng Cha Con Doãn Thường là các Vua Hùng tái sanh lập lên nhà nước Việt Trung Nguyên. Nên dân chúng theo Cha Con Doãn Thường như nước vỡ bờ không có cách gì ngăn cản lại nổi thế lực phản loạn như cơn bão không những chiếm lấy Bắc Văn Lang mà còn tràn vào trung Văn Lang. Châu Phủ, Thục An Kim. Anh Kỳ. Thạch Trung Sơn. Kỳ Thọ ra sức chống trả. Không cho Quân nổi loạn tiếng vào Trung Văn Lang. Tình thế vô cùng cấp bách.
Hùng Việt Vương nghe Hầu Tôn Vương tâu như vậy lấy làm kinh hãi nói:
Các Khanh có kế sách gì chống trả lại thế lực quân phản loạn không?
Hùng Việt Vương Tuân Lang, hỏi đi hỏi lại đến mấy lần thấy dưới triều các Quan Tướng làm thinh.
Hùng Việt Vương than:
Các khanh thường ngày khoe tài khoe giỏi, cái tài cái giỏi bay đi đâu hết rồi.
Từ chỗ ngồi Hầu Lạc Vương đứng dậy nói:
Bẩm Quốc Vương Bệ Hạ. Cha Con Doãn Thường nổi lên làm loạn chiếm lấy Bắc Văn Lang nhanh chóng như vậy. Là có sự đồng tình phần lớn dân chúng Bắc Văn Lang. Nhất là thành phần dân chúng Phương Bắc lánh nạn chiến tranh di cư vào Bắc Văn Lang sanh sống đều theo Cha Con Doãn Thường. Chưa kể tình trạng dân chúng di cư qua Bắc Văn Lang làm ăn bất hợp pháp chưa nhập tịch thành dân Văn Lang trên hai triệu người. Nghe Đâu các bang phái ác ma tà giáo cũng gia nhập theo quân phiến loạn Cha Con Doãn Thường. Thế lực quân phản loạn phải nói là rất hùng mạnh nếu không có kỳ tích nhân tài xuất hiện thời khó mà dẹp quân phản loạn nhanh chóng được.
Hùng Việt Vương nghe Hầu Lạc Vương báo cáo như vậy thời không khỏi lấy làm lo lắng.
Hầu Thừa Vương từ chỗ ngồi đứng dậy nói:
Bẩm Quốc Vương Bệ Hạ. Quân phiến loạn Cha Con Doãn Thường là quân nội loạn. Không phải là quân xâm lược có sự đồng tình của dân chúng đã cấu kết thành sức mạnh được sự che chở của muôn dân Bắc Văn Lang khó mà đánh tan một ngày hai ngày được. Đáng lý ra tiêu diệt mầm phản loạn ngay từ đầu, giờ đây thời đã muộn khó mà tiêu diệt vì dân chúng Bắc Văn Lang đã lập Cha Con Doãn Thường làm Việt Vương Tế Gia có nghĩa là Dân Chúng Bắc Văn đã có Quốc Vương mới dân chúng Bắc Văn Lang phò cha con Doãn Thường chống trả lại nhà nước Văn Lang nên khó mà tiêu diệt nhanh chóng được. Lại nữa Cha Con Doãn Thường không phải là quân xâm lược mà là quân loạn tặc phản loạn nổi dậy quyết lật đổ nhà nước Văn Lang lập lên thời đại mới, thời đại Việt Trung Nguyên. Đã có cái gốc mưu đồ quá lớn Bá Tánh muôn dân Bách Việt Bắc Văn Lang vì thế mà tin theo. Thế lực vô cùng vững chắc. Không như cách đây hơn ba trăm năm mươi năm về trước ở thời Phù Đổng Thiên Vương. Các Bộ Lạc Bách Việt Văn Lang nổi lên đòi tự trị chỉ là ảnh hưởng Văn Hóa Phương Bắc không có thống nhất tổ chức. Mạnh ai nấy xưng Vua, xưng Chúa. Còn cuộc nổi dậy của Cha Con Doãn Thường là có âm mưu từ trước, đường đi nước bước điều có sự tính toán chu đáo nội cái việc mua Quan bán Tước ở Bắc Văn Lang không ai phát hiện ra. Nội sơ Con Cháu dòng họ của Việt Tế Gia có hơn mười Quan Tri Huyện. Một Qua Tri Phủ. Chưa nói đến Con Cháu của Triệu Xuyên. Triệu Thuẫn có đến năm Quan Tri Huyện. Cho thấy dòng họ Vũ, dòng họ Triệu có âm mưu từ trước phải nói là rất lâu đời nhưng không tài nào phát hiện được. Khi phát hiện được thời Bắc Văn Lang đã về tay Cha Con Doãn Thường phải nói là một cuộc loạn tặc phản loạn tài tình hết sức chu đáo. Chỉ còn cách là dốc toàn lực lượng đánh một trận. Một là lấy lại Bắc Văn Lang. Hai là…
Hầu Lạc Vương dừng lại không nói. Hùng Việt Vương Tuân Lang hỏi:
Sao khanh không nói tiếp.
Hầu Lạc Vương nói:
Bệ Hạ cho phép thời Thần mới nói.
Hùng Việt Vương nói:
Khanh cứ nói.
Hầu Lạc Vương nói:
Bẩm Quốc Vương Bệ Hạ Cha Con Doãn Thường biết lợi dụng hình ảnh Quốc Tổ che chở cho mình một lá bùa hộ mệnh