Năm 1963, các nhà khoa học tại rừng Hubbard Brook ở New Hampshire đã thực hiện một nghiên cứu gây sốc. Các mẫu mưa gần nhất của họ có tính axit cao hơn gấp 100 lần bình thường. Ở cấp độ này, chỉ trong 10 năm sau, những trận mưa axit đổ xuống sẽ phá hủy các hệ sinh thái biển và thực vật của khu vực. Khẩn trương công bố những phát hiện của họ với các nhà nghiên cứu khác, họ đã quyết tâm tìm câu trả lời cho hai câu hỏi: Điều gì đã gây ra hiện tượng nguy hiểm này? Và có thể làm gì để ngăn chặn nó?
Mưa axit là gì?
Mưa không chỉ bao gồm nước. Hóa chất và các hạt trong khí quyển có thể được tìm thấy trong những giọt mưa và một số hợp chất như CO2 làm cho lượng mưa thường có tính axit nhẹ. Nhưng khi nước tương tác với các oxit của nitơ hoặc lưu huỳnh đioxit thì axit mạnh được tạo ra bao gồm (H2SO3, H2SO4 và HNO3). Trên thang đo pH, mưa bình thường có độ pH khoảng 5,4, nhưng mưa tương tác với các khí này có thể có độ pH thấp tới 3,7 và được gọi là mưa axit.
Mưa axit nguy hiểm như thế nào?
Mưa axit là gì?
Mưa không chỉ bao gồm nước. Hóa chất và các hạt trong khí quyển có thể được tìm thấy trong những giọt mưa và một số hợp chất như CO2 làm cho lượng mưa thường có tính axit nhẹ. Nhưng khi nước tương tác với các oxit của nitơ hoặc lưu huỳnh đioxit thì axit mạnh được tạo ra bao gồm (H2SO3, H2SO4 và HNO3). Trên thang đo pH, mưa bình thường có độ pH khoảng 5,4, nhưng mưa tương tác với các khí này có thể có độ pH thấp tới 3,7 và được gọi là mưa axit.
Mưa axit nguy hiểm như thế nào?
Oxit nitơ và lưu huỳnh đioxit có thể xuất hiện tự nhiên trong thời gian ngắn sau các vụ phun trào núi lửa hoặc sét đánh. Nhưng các nhà máy điện, nhà máy lọc dầu và phương tiện sử dụng nhiên liệu hóa thạch liên tục thải ra một lượng lớn các khí này dân đến việc hình thành những đám mây khí thải và được gió thổi đi cách nguồn ô nhiễm hàng trăm km.
Những đám mây chết chóc này làm tăng đáng kể tính axit của không khí trong khu vực, từ đó tạo ra mưa axit, tuyết axit và sương mù axit. Hậu quả dẫn đến axit hóa các hồ và suối, giết chết mùa màng và rừng, làm hỏng đất,... Theo thời gian, mưa axit thậm chí có thể ăn mòn các kiến trúc nhân tạo làm bằng đá hoặc kim loại. Vào những năm 1970, các nhà khoa học ở Bắc Mỹ và Châu Âu phân loại mưa axit vào nhóm những mối đe dọa môi trường nghiêm trọng.
Làm cách nào để giảm lượng mưa axit?
Nhưng bất chấp bằng chứng rõ ràng liên quan đến vấn đề ô nhiễm không khí, các công ty từ chối trách nhiệm và nghi ngờ về nghiên cứu. Tại Hoa Kỳ, các công ty đã vận động hành lang chống lại việc điều chỉnh ô nhiễm, và thuyết phục các chính trị gia rằng các chính sách đó sẽ làm tăng chi phí năng lượng và đe dọa việc làm. Những trở ngại này khiến chính phủ phải trì hoãn các thay đổi, tạm dừng các nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này.
Nhưng sau một thập kỷ, Quốc hội cuối cùng đã hành động. Vì phần lớn lượng khí thải lưu huỳnh đioxit đến từ các nhà máy điện, chính phủ đặt ra một giới hạn về lượng khí thải mỗi năm của từng nhà máy điện. Điều này buộc mọi công ty phải giảm lượng khí thải trong dài hạn.
Một số nhà máy đã thêm bộ lọc khử lưu huỳnh vào ống hút khói của họ, hoặc chuyển sang sử dụng than có hàm lượng lưu huỳnh thấp và khí đốt tự nhiên. Những tiến bộ này cho phép ngành điện phát triển trong khi tình trạng ô nhiễm được kiểm soát.
Quảng cáo
Đến năm 1985, Canada và Liên minh Châu Âu đã thông qua các giải pháp của riêng họ, và các điều ước quốc tế bắt đầu lưu hành để giảm ô nhiễm không khí trên toàn thế giới. Một số quốc gia như Nga, Ấn Độ và Trung Quốc vẫn phụ thuộc nhiều vào than có hàm lượng lưu huỳnh cao. Tuy nhiên, việc nhận định mưa axit là một mối đe dọa lớn nên nhiều chính sách bảo vệ môi trường đã được áp dụng và hạn chế mối nguy hiểm này. Tóm lại, mưa axit là một mối đe dọa nguy hiểm nhưng có thể kiểm soát được, quan trọng là các quốc gia có dứt khoát hay không mà thôi.
Nguồn: TED-Ed