Trung Quốc và Mỹ vừa qua được kêu gọi nên cải thiện các kênh liên lạc có liên quan đến hoạt động của những công ty tư nhân ngoài vũ trụ nhằm hạn chế những tai nạn có thể xảy ra. Lời kêu gọi này được đưa ra sau khi phía Trung Quốc gửi những tố cáo của họ lên LHQ về việc trạm vũ trụ Tiangong của họ đã suýt 2 lần va chạm với các vệ tinh trong chuỗi Starlink mà SpaceX đang triển khai. Vụ việc xảy ra vào những ngày cuối năm 2021. Quỹ đạo thấp đang ngày càng quá tải bởi các vệ tinh và điều này thật sự đã là mối lo của các nhà khoa học trong vài năm trở lại đây.
Starlink - dự án cung cấp internet cho bất kỳ khu vực nào trên phạm vi toàn cầu dự kiến sẽ hoạt động được nhờ 1 mạng lưới hàng chục ngàn vệ tinh và tới thời điểm này, đã có 1.900 vệ tinh đi vào quỹ đạo. Tháng trước, Josef Aschbacher - người đứng đầu cơ quan vũ trụ châu Âu đã đưa ra lo ngại về việc này và yêu cầu Elon Musk đưa ra những quy tắc nhất định. Musk đã bác bỏ yêu cầu này và cho rằng không gian đủ rộng để mạng lưới 42.000 vệ tinh của công ty đi vào hoạt động. “Chúng tôi không ngăn cản ai làm cái gì cả và chúng tôi cũng không mong điều đó xảy ra”, Musk cho biết trong 1 buổi phỏng vấn với tờ Financial Times.
Các vệ tinh của Starlink được thiết kế để hoạt động ở quỹ đạo các Trái đất 550 km, trong khi quỹ đạo của trạm Tiangong cách Trái đất 390 km và ISS thì là 410 km. SpaceX cho biết các vệ tinh của họ được trang bị hệ thống tự điều chỉnh quỹ đạo nhằm tránh va chạm. Mặc dù vậy, số lượng vệ tinh đang ngày càng gia tăng, cộng với số vệ tinh của hàng loạt các công ty khác như Amazon, OneWeb và Telstar cũng đồng nghĩa với việc tỷ lệ lỗi hệ thống gia tăng.
Starlink - dự án cung cấp internet cho bất kỳ khu vực nào trên phạm vi toàn cầu dự kiến sẽ hoạt động được nhờ 1 mạng lưới hàng chục ngàn vệ tinh và tới thời điểm này, đã có 1.900 vệ tinh đi vào quỹ đạo. Tháng trước, Josef Aschbacher - người đứng đầu cơ quan vũ trụ châu Âu đã đưa ra lo ngại về việc này và yêu cầu Elon Musk đưa ra những quy tắc nhất định. Musk đã bác bỏ yêu cầu này và cho rằng không gian đủ rộng để mạng lưới 42.000 vệ tinh của công ty đi vào hoạt động. “Chúng tôi không ngăn cản ai làm cái gì cả và chúng tôi cũng không mong điều đó xảy ra”, Musk cho biết trong 1 buổi phỏng vấn với tờ Financial Times.
Các vệ tinh của Starlink được thiết kế để hoạt động ở quỹ đạo các Trái đất 550 km, trong khi quỹ đạo của trạm Tiangong cách Trái đất 390 km và ISS thì là 410 km. SpaceX cho biết các vệ tinh của họ được trang bị hệ thống tự điều chỉnh quỹ đạo nhằm tránh va chạm. Mặc dù vậy, số lượng vệ tinh đang ngày càng gia tăng, cộng với số vệ tinh của hàng loạt các công ty khác như Amazon, OneWeb và Telstar cũng đồng nghĩa với việc tỷ lệ lỗi hệ thống gia tăng.
Chỉ cần 1 vệ tinh mất kiểm soát, nó có thể va chạm với các vệ tinh khác hay thậm chí là những trạm vũ trụ đang trong quỹ đạo. Aaron Boley và Michael Byers - những người đứng đầu của Viện nghiên cứu ngoài Không gian của Đại học British Columbia hồi tháng 5 năm ngoái cũng đã xuất bản một công trình nghiên cứu bày tỏ nhưng rủi ro có thể xảy ra liên quan đến các mạng lưới vệ tinh như Starlink.
Theo nghiên cứu, một số quỹ đạo có thể sẽ bị quá tải là điều không thể tránh khỏi. Hiện vẫn chưa có các quy tắc rõ ràng đối với những hoạt động ngoài không gian, những tiêu chuẩn về một khoảng cách thế nào là đủ an toàn đối với các thiết bị, tàu vũ trụ. Và sự cố mà Trung Quốc khiếu nại cho thấy đang thiếu những kênh liên lạc phù hợp. “Giải pháp duy nhất là hợp bởi đây là vấn đề của mọi quốc gia và các công ty vũ trụ”.
Wang Guoyu, phó giám đốc Viện Luật Vũ trụ tại Viện Công nghệ Bắc Kinh cho biết khiếu nại mà Trung Quốc gửi lên Liên Hợp Quốc cũng bao hàm một lời kêu gọi Mỹ cải thiện thông tin liên lạc về các vấn đề không gian. "Cả 2 bên cần thiết lập một cơ chế đối thoại và phối hợp với nhau để một khi một sự cố tương tự khác xảy ra ngoài vũ trụ, Trung Quốc và Mỹ có thể ngay lập tức phối hợp để đối phó với nó". Ngoài ra, ông Wang còn cho biết những lo ngại của Trung Quốc đối với Starlink không chỉ nằm ở việc tạo ra những mối nguy ngoài không gian mà còn bởi những yếu tố tiềm năng liên quan đến quân sự mà mạng lưới khổng lồ này có thể tạo ra.
Ông cũng cho biết những lo ngại của Bắc Kinh đối với Starlink được thúc đẩy bởi những tác động quân sự tiềm tàng của mạng lưới liên lạc khổng lồ này. Được biết, mỗi 1 vệ tinh Starlink chỉ nặng vài trăm kg, tương đối nhỏ và bất kỳ việc mong muốn “quân sự hoá” nào đối với thiết bị này đều rất hạn chế bởi chúng không có khả năng mang vũ khí hạng nặng hoặc cảm biến lớn.
Ngược lại, vệ tinh của các hệ thống giám sát tên lửa thế hệ tiếp theo của Lực lượng Vũ trụ Hoa Kỳ - Hệ thống hồng ngoại không gian, Hệ thống theo dõi và giám sát không gian và Hệ thống cảnh báo sớm tên lửa trên không gian mới có kích thước lớn hơn nhiều, nặng vài tấn và có thể được trang bị nhiều thiết bị hơn.
South China Morning Post
Quảng cáo