Ngày nay, ngành công nghiệp âm nhạc toàn cầu gần như chẳng có cách nào thực sự hiệu quả để chặn đứng tình trạng chia sẻ những bản thu âm vi phạm bản quyền trên mạng internet. Chỉ cần công cụ chia sẻ tệp tin là có thể gửi file mp3 cho nhau rất nhanh. Nhưng nếu anh em nghĩ rằng chia sẻ nhạc lậu chỉ bùng nổ kể từ khi internet lên ngôi thì anh em nhầm to. Nếu xét đến khái niệm chia sẻ nhạc lậu là qua mặt những chính sách bảo vệ tác quyền và chống sao chép trái phép, thì có lẽ trường hợp chia sẻ “nhạc lậu” đầu tiên được ghi nhận rộng rãi trên thế giới diễn ra gần 250 năm về trước, và người chia sẻ nhạc lậu không ai khác chính là nhà soạn nhạc lừng lẫy Wolfgang Amadeus Mozart (1756 – 1791).
250 năm về trước, một trong những bí mật được lưu giữ cẩn mật nhất bên trong Nhà nguyện Sistine, Tòa thánh Vatican đã bị một cậu bé 14 tuổi chia sẻ rộng rãi. Bản nhạc đó là “Xin Chúa Rủ Lòng Thương” (Misere mei, Deus) của nhà soạn nhạc Gregorio Allegri:
Từ khoảng năm 1630, Misere mei, Deus được coi là một trong những bí mật được bảo vệ cẩn trọng nhất tại Tòa thánh Vatican. Theo lệnh của Giáo Hoàng khi ấy, không một ai được phép sao chép và phân phối bản nhạc này ra ngoài. Ai vi phạm sẽ bị rút phép thông công, cơ bản là bị khai trừ khỏi Giáo hội. Theo Giáo Hoàng khi ấy, bản nhạc do Allegri phổ nhạc, dựa trên đoạn 51 của Sách Thánh Vịnh, quá hoàn hảo và khiến người nghe gần như chạm tới Thiên Đàng, nên ngài cho rằng chia sẻ bản chép nhạc đến nơi khác là một tội ác. Bản Misere mei, Deus khi ấy chỉ được biểu diễn vào Tuần Thánh trước lễ Phục Sinh, và chỉ được biểu diễn ở Nhà nguyện Sistine. Và, trong vòng hơn 140 năm, bản nhạc trở thành huyền thoại.
Khi ấy cách Tòa thánh Vatican bảo vệ tác quyền âm nhạc cũng đơn giản: Chỉ có 1 bản ghi nốt nhạc của Misere mei, Deus, không có bản thứ hai. Bản thân phần hợp xướng của bản nhạc này quá phức tạp để ghi nhớ chỉ bằng cách nghe lại và về nhà viết ra giấy. Nhưng cậu bé Mozart khi ấy mới 14 tuổi đã làm được điều mà cả Giáo hội tưởng là bất khả thi. Mozart khi ấy chỉ nghe bản nhạc này hai lần. Lần đầu tiên là vào ngày làm lễ ngày thứ 4, ngay sau đó cậu bé đã viết lại bản nháp đầu tiên của Misere mei, Deus. Hai ngày sau, vào ngày Thứ sáu Tuần Thánh, cậu ngồi nghe thêm một lần nữa và chỉnh sửa bản nháp đầu tiên.
Sau đó, Mozart tiếp tục chuyến hành trình chu du nước Ý, và cũng không quên chia sẻ bí mật về bản nhạc Thánh, vốn là một huyền thoại sống thời bấy giờ vì ai muốn nghe, chỉ có một cách là đến thăm Nhà nguyện Sistine.
Mozart chia sẻ nhạc lậu, nhưng không “vi phạm bản quyền”, vì theo luật bây giờ, vi phạm bản quyền phải đi kèm giữa việc sao chép trái phép nội dung gốc, với việc lợi dụng việc phân phối các tác phẩm đó để trục lợi cá nhân. Mozart chỉ tự viết lại từng nốt nhạc, chứ không lấy cắp bản ghi của bản nhạc đó, hoặc in chúng số lượng lớn rồi đem bán kiếm lời. Công nghệ in ấn thời bấy giờ chưa đủ sức để phân phối bản nhạc này tới hàng nghìn Giáo xứ. Có lẽ, chúng ta cần nhất trí với nhau việc Mozart chia sẻ Misere mei, Deus không chỉ nhờ khả năng thiên bẩm, mà còn nhờ tình yêu đầy trong sáng và chân phương với âm nhạc. Mozart không ăn cắp bản quyền, mà giống “whistle blower” hơn.
May mắn thay, Mozart không chỉ không bị trừng phạt theo luật Tòa thánh, mà Giáo Hoàng khi ấy thậm chí còn bị ấn tượng bởi khả năng của cậu bé 14 tuổi, chỉ nghe hai lần mà viết lại một cách hoàn hảo bản nhạc. Misere mei, Deus có thời lượng khoảng 12 đến 13 phút đồng hồ, được Allegri viết cho 9 giọng xướng âm, năm giọng chính và 4 giọng phụ xung quanh phòng Nhà nguyện. Chỉ nghe hai lần mà ghi nhớ được tất cả 9 giọng xướng âm ấy, Mozart đã khiến Giáo Hoàng thực sự ngạc nhiên, và phong cho nhà soạn nhạc người Áo trước vị hiệp sỹ “Chivalric Order of the Golden Spur”.
Theo Thomann