MacBook Pro 2019 vừa được Apple âm thầm giới thiệu với sự thay đổi chính là ở cấu hình và bàn phím cánh bướm tiếp tục được cải tiến. Trong bài này thì mình chỉ chia sẻ đôi chút về cấu hình của MacBook Pro 15 2019 (A1990) và hiệu năng của phần cứng mới.
Thay đổi chính trên cấu hình của MacBook Pro 15 2019 là CPU với các phiên bản CPU mới như Core i7-9750H thay thế cho Core i7-8750H, Core i9-9980HK thay cho Core i9-8950HK và Core i9-9880H thay thế cho Core i7-8850H nhưng với số nhân nhiều hơn là 8 thay vì 6. Chi tiết hơn trong bảng dưới đây:
Kỳ thực thì chỉ có dòng MacBook Pro 13 thì Apple vẫn sử dụng các phiên bản CPU thửa riêng, tất cả đều thuộc dòng ULV (-U) với đặc tính tiết kiệm điện năng. Trong khi đó trên MacBook Pro 15" thì Apple vẫn sử dụng các phiên bản CPU tiêu chuẩn của Intel. Việc ra mắt MacBook Pro 15 2019 khớp hoàn toàn với lộ trình CPU của Intel bởi trong thời điểm này khi mà nhiều hãng làm laptop Windows cũng đã ra mắt các dòng máy mới hay phiên bản nâng cấp của các dòng máy cũ với CPU Intel Core i thế hệ 9.
Thế hệ 9 không có nghĩa là kiến trúc mới hay tiến trình mới, về cơ bản cả 3 phiên bản Core i9-9980HK, Core i9-9880H và Core i7-9870H vẫn sử dụng kiến trúc Coffee Lake-H nhưng được làm mới đôi chút nên Intel gọi là Coffee Lake-H Refresh. Dòng Core i9 cho nền tảng di động (laptop) đã được Intel giới thiệu từ năm ngoái với Core i9-8950HK và với Coffee Lake-H Refresh thì Intel đã tăng số nhân lên thành 8 nhân thay vì 6 với các phiên bản Core i9-9850HK và Core i9-9880H. Đây cũng là những con CPU đầu tiên của Intel dành cho laptop có 8 nhân.
Core i thế hệ 9 có gì mới?
Thay đổi chính trên cấu hình của MacBook Pro 15 2019 là CPU với các phiên bản CPU mới như Core i7-9750H thay thế cho Core i7-8750H, Core i9-9980HK thay cho Core i9-8950HK và Core i9-9880H thay thế cho Core i7-8850H nhưng với số nhân nhiều hơn là 8 thay vì 6. Chi tiết hơn trong bảng dưới đây:
Thế hệ 9 không có nghĩa là kiến trúc mới hay tiến trình mới, về cơ bản cả 3 phiên bản Core i9-9980HK, Core i9-9880H và Core i7-9870H vẫn sử dụng kiến trúc Coffee Lake-H nhưng được làm mới đôi chút nên Intel gọi là Coffee Lake-H Refresh. Dòng Core i9 cho nền tảng di động (laptop) đã được Intel giới thiệu từ năm ngoái với Core i9-8950HK và với Coffee Lake-H Refresh thì Intel đã tăng số nhân lên thành 8 nhân thay vì 6 với các phiên bản Core i9-9850HK và Core i9-9880H. Đây cũng là những con CPU đầu tiên của Intel dành cho laptop có 8 nhân.
Bộ đệm L3 lớn hơn, 16 MB trên các phiên bản Core i9 và 12 MB cho các phiên bản Core i7. Bộ đệm lớn rất có lợi bởi cache lưu trữ những chỉ thị, dữ liệu thường sử dụng mà các nhân xử lý cần truy xuất. Đặc thù của cache là tốc độ truy xuất cao hơn rất nhiều so với RAM và nó nằm gần nhân xử lý hơn, từ đó dung lượng cache lớn sẽ giảm thiểu tình trạng chờ của CPU, tức giảm thời gian mà CPU phải đợi để lấy dữ liệu từ các bộ nhớ chậm hơn như RAM, từ đó cải thiện tốc độ phản hồi, tốc độ xử lý và khả năng xử lý đa nhiệm.
Cụm RAM 16 GB màu cam hàn chết trên bo.
TDP hay công suất thoát nhiệt của các phiên bản CPU mới đều 45 W tương tự các phiên bản cũ nên mình nghĩ Apple sẽ không thay đổi gì nhiều về hệ thống tản nhiệt. Tuy nhiên lần trước Core i9-8950HK mới 6 nhân đã rất nóng, lần này Core i9-9950HK có đến 8 nhân thành ra mình nghĩ sự thay đổi có thể sẽ nằm trên tùy chọn CPU này. Đổi như thế nào thì đó vẫn là một bí ẩn, thiết kế tản nhiệt của MacBook hầu như không khác về vẻ ngoài giữa các thế hệ. Cơ chế tản nhiệt của MacBook vẫn dùng ống đồng, heatsink nhiều lá nhôm đan sít nhau và 2 quạt.
GPU gần như không thay đổi so với MacBook Pro 15 2018: Radeon Pro 555X và 560X
Đi với Core i9 sẽ có thêm các tùy chọn Radeon Pro Vega 16 và Radeon Pro Vega 20. Đây là các GPU được thiết kế riêng cho Apple, chúng dùng kiến trúc Vega (GCN 5.0) mới hơn so với Polaris 21, phiên bản Vega 16 có 1024 nhâm Stream, phiên bản Vega 20 có 1280 nhân Stream, xung nhịp tối đa chưa rõ bao nhiêu nhưng hiệu năng của chúng được cho là ở giữa Nvidia GeForce GTX 1050 và GTX 1050 Ti. Cả 2 đều có 4 GB bộ nhớ HBM2.
RAM và SSD thì sao?
Quảng cáo
RAM DDR4-2400 tương tự loại RAM dùng trên MacBook Pro 15 2018, chip RAM của SK Hynix và là RAM hàn chết trên bo mạch thành ra chúng ta không thể nâng cấp dung lượng. Anh em sẽ phải chọn trước 16 GB hay 32 GB, chênh lệch về chi phí giữa 2 mức dung lượng này lên đến 400 USD. Dùng NovaBench đo tốc độ RAM thì chiếc DDR4-2400 trên chiếc MacBook Pro 15 2019 đạt 23703 MB/s trong khi LPDDR3-2133 trên chiếc MacBook Pro 15 2017 là 21556 MB/s.Tương tự với SSD, Apple đã hàn luôn SSD lên bo mạch kể từ thế hệ trước thành ra việc nâng cấp là bất khả thi. SSD này dùng chip NAND của Toshiba, vi điều khiển được Apple thiết kế riêng và bảo mật với chip Apple T2. SSD dùng giao thức NVMe tốc độ cao, phiên bản mình sắp benchmark dưới đây có 256 GB nên tốc độ truy xuất sẽ thấp nhất trong số các tùy chọn dung lượng còn lại mà Apple cung cấp. Mức chênh lệch về mức dung lượng sẽ từ 200 USD cho 512 GB đến 3000 USD cho 4 TB.
Disk Speed Test của Blackmagic cho thấy tốc độ đọc của chiếc ổ SSD trên MacBook Pro 15 2019 là 2581 MB/s đọc và 1249 MB/s trung bình. Đây là tốc độ truy xuất tuần tự, nó chỉ phản ánh một số tình huống chẳng hạn như khi anh em xuất video (tùy theo định dạng) thì tốc độ ghi có thể đạt trên 1200 MB/s, đọc đến gần 2500 MB/s nhưng nếu test tốc độ ổ SSD này bằng NovaBench thì tốc độ đọc chỉ đạt 1200 MB/s còn ghi khoảng 484 MB/s. Nhìn chi tiết vào các bài test của Disk Speed Test thì anh em có thể hình dung về tốc độ đọc/ghi của từng loại ứng dụng, từng định dạng file. Nếu anh em chọn phiên bản 512 GB trở lên thì tốc độ sẽ còn cao hơn bởi lúc này SSD sẽ có nhìu chip NAND hơn, từ đó vi điều khiển SSD có thể truy xuất song song cùng lúc nhiều chip NAND và điều này có nghĩa là tốc độ truy xuất sẽ nhanh hơn.
Benchmark và nhận định:
Trước đến giờ mình chỉ làm đánh giá laptop Windows với rất nhiều trò vui vẻ, chuyển sang Mac thì không có nhiều công cụ để benchmark hiệu năng, nhất là những công cụ benchmark hiệu năng đồ họa như 3DMark. Tìm quanh đi quẩn lại vẫn có vài thứ phổ thông như Cinebench, Geekbench, NovaBench … mình bổ sung thêm vài bài test như Blender và Corona - 2 ứng dụng kết xuất (render) được nhiều anh em làm đồ họa chuyên nghiệp sử dụng, test GPU thì mình dùng Unigine Heaven và Valley cho OpenCL và GFX Metal cho Metal API độc quyền của Apple. Bên cạnh chiếc MacBook 15 2019 này thì mình cũng đã mượn được một chiếc MacBook 15 2017 với cấu hình thuộc hàng cao để so sánh.
Cấu hình của MacBook Pro 15 2019:
- Core i7-9750H 6 nhân 12 luồng, 2,6 - 4,5 GHz, 12 MB Cache, TDP 45 W;
- Radeon Pro RX 555X, 768 nhân Stream, 855 MHz, 4 GB GDDR5;
- 16 GB DDR4-2400 dual-channel hàn chết;
- 256 GB PCIe SSD hàn chết.
Cấu hình của Macbook Pro 15 2017:
Quảng cáo
- Core i7-7820HQ 4 nhân 8 luồng, 2,9 - 3,9 GHz, 8 MB Cache, TDP 45 W;
- Radeon Pro RX 560, 1024 nhân Stream, 907 MHz, 4GB GDDR5;
- 16 GB LPDDR3-2133 dual-channel hàn chết;
- 512 GB PCIe SSD hàn chết.
Riêng với Cinebench R20 thì để chắc chắn về hiệu năng thực tế anh em nên cho chạy nhiều lần để thấy mức điểm trung bình. Có thể thấy sau 5 lần chạy thì hành vi của 2 chiếc máy này cơ bản giống nhau, lần chạy đầu luôn thấp nhất sau đó đạt hiệu năng cao nhất ở lần chạy thứ 2 và giảm dần đến một mức trung bình ở các lần chạy tiếp theo. Với MacBook Pro 15 2019 thì điểm trung bình đa nhân sẽ là 2300 điểm trong khi MacBook Pro 15 2017 khoảng 1800 điểm. Việc chạy nhiều lần bài test đa nhân này sẽ mô phỏng tình huống anh em phải render thứ nhiều lần liên tục. Hiệu năng hệ thống có được giữ ở mức cao nhất hay không dễ nhận thấy qua đồ thị trên.
Tiếp theo mình cho chạy Blender - một ứng dụng kết xuất nguồn mở thường được anh em làm hoạt hình, kỹ xảo, mô hình hóa 3D khai thác tập lệnh AVX2 sử dụng để render. Ứng dụng benchmark của Blender được thiết kế để đánh giá hiệu năng hệ thống với 7 bài test được thiết kế với nhiều chủ đề như nội thất, ngoại thất, chủ thể 3D như xe hơi, nhân vật game … Các bài test sẽ lần lượt được render và kết quả sẽ tính theo thời gian hoàn tất, ngắn nhất tốt nhất.
Tương tự mình test một ứng dụng render nữa là Corona 1.3 - ứng dụng này thường dùng với Autodesk 3ds Max, Cinema 4D và các ứng dụng CLI khác. Corona mô phỏng ánh sáng môi trường với độ chi tiết cao. Core i7-9750H mất chỉ 3 phút 34 giây để hoàn tất bài test với tốc độ xử lý 2.263.660 ray/giây, Core i7-7820HQ mất gần 5 phút để hoàn tất với tốc độ xử lý 1.627.290 ray/giây.
Về phần hiệu năng GPU, mình không tìm được một phần mềm nào có thể đánh giá tổng quát hiệu năng của GPU trên Mac như 3DMark trên Windows. Thứ duy nhất mình thấy phổ biến là GFXBench và các công cụ benchmark của Unigine.
Chiếc MacBook Pro 15 2017 mình so sánh dùng Radeon Pro 560 và nó đạt điểm số cao hơn một khoảng 40 điểm so với phiên bản Radeon Pro 555X trên MacBook Pro 15 2019. Điều đáng chú ý là tỉ lệ khung hình trung bình không kém là bao giữa Radeon Pro 555X và Radeon Pro 560 - 18 và 18.9 fps. Unigine Valley Benchmark dùng OpenGL API, thiết lập đồ họa mình chọn rất cao với khử răng cưa 8X thành ra không ngạc nhiên khi Radeon Pro 555X hay 560 không thể đạt khung hình trung bình cao hơn.
CPU: 97 - 99 độ C, GPU: 78 độ C ...
Một yếu tố nữa mình tò mò về MacBook Pro xưa nay là nhiệt độ. Thông thường trên những chiếc máy tính Windows thiết kế mỏng thì một khi CPU nóng ngưỡng gần 90 độ C thì hiện tượng Throttle bắt đầu xảy ra, xung bị cắt xuống để CPU duy trì mức nhiệt độ mát hơn, từ đó bảo vệ cho CPU. Mỗi con CPU Intel hiện tại có ngưỡng nhiệt độ Tjunction tối đa chỉ 100 độ C và trên MacBook Pro, chuyện cắt xung để giảm nhiệt gần như không xảy ra 😁. Đùa thôi, Core i7-9750H trên MacBook Pro 15 2019 chạy đa nhân dưới sức bởi theo lý thuyết, con CPU này nếu được tản nhiệt đủ tốt, hãng sản xuất giữ Vcore thì nó có thể đạt 4 GHz 6 nhân. Hệ thống tản nhiệt của MacBook Pro 15 2019 không đủ để đạt mức xung này nên cả 6 nhân chỉ có thể chạy ở 2,8 - 2,9 GHz, lúc này nhiệt độ đã 97 độ C rồi. Tuy nhiên thay vì để CPU throttle với xung bất ổn định thì Apple đã chọn giải pháp cứ để CPU chạy ở mức xung này dù CPU rất nóng, đổi lại là xung ổn định dù không cao.
Nếu như những con số từ Intel Power Gadget là đúng thì thật sự mình lo ngại rằng việc sử dụng MacBook Pro để chạy những ứng dụng render, đồ họa nặng ngày này qua ngày nọ thì qua thời gian khi hệ thống tản nhiệt giảm dần hiệu quả dẫn truyền thì con CPU sẽ ngày một nóng hơn và giảm tuổi thọ.Về phần GPU Radeon Pro 555X và Radeon Pro 560 thì nhiệt độ khi benchmark Unigine Valley tối đa là 78 độ C, không có dấu hiệu tăng cao hơn sau khi chạy nhiều lần. Mức nhiệt độ này theo mình không đáng lo ngại như CPU, trần nhiệt của GPU Radeon phiên bản cho laptop thường ở mức 90 độ C.
MacBook Pro 15 2019 mạnh hơn nhiều so với 2017, đôi chút so với 2018:
Điều đầu tiên là việc các tùy chọn CPU trên MacBook Pro 15 2019 hiện tại thấp nhất là Core i7-9750H với 6 nhân 12 luồng thì con CPU này tương đương về số nhân và luồng với các phiên bản Core i7, i9 được Apple trang bị trên MacBook Pro 15 2018. Nó mạnh hơn so với những Core i7-8750H và Core i7-8850H nhờ bộ đệm lớn hơn và chỉ thua kém đôi chút Core i9-8950HK về xung nhịp. Với những ứng dụng kết xuất yêu cầu CPU chạy toàn nhân thì xung nhịp đa nhân của các phiên bản CPU 6 nhân 12 luồng này sẽ gần như tương đương nhau, sự cải thiện từ đó không đáng kể, trừ khi chạy đơn nhân lúc đó xung tối đa sẽ được duy trì trên một nhân. Sự cải thiện về IPC trên Core i thế hệ 9 so với thế hệ 8 là không nhiều.
Vì vậy nếu như anh em đang sử dụng MacBook Pro 15 2018 và muốn lên đời 2019 thì nên chọn phiên bản chạy Core i9-9880H hoặc Core i9-9980HK (dĩ nhiên giá chát hơn) bởi chúng đều là các CPU 8 nhân 16 luồng. Còn nếu như anh em đang dùng MacBook Pro 15 2017 thì việc lên đời 2019 mình thấy có lý hơn. Phiên bản cơ bản đã có Core i7-9750H 6 nhân 12 luồng mạnh hơn khá nhiều so với Core i7-7820HQ 4 nhân 8 luồng, thêm nữa là bàn phím cánh bướm đã được Apple cải tiến, chắc là khó bị kẹt bụi hơn.