Một cách thức mới trong việc truyền thuốc điều trị ung thư vừa mới vượt qua giai đoạn ban đầu của thử nghiệm lâm sàng, thường là pha 0 (phase 0) hoặc pha 1 (phase 1), kiểm tra độ an toàn trên bệnh nhân. Phương pháp này sử dụng các viên dạng nhộng có chứa thuốc điều trị ung thư được kích hoạt bằng nhiệt để đưa thuốc vào chỗ khác khối u ở trong gan, sau khi chắc chắn đã đến nơi thuốc sẽ được giải phóng bằng các bước sóng siêu âm được kích hoạt ở bên ngoài cơ thể.
Đây có thể coi là lần đầu tiên cách thức này được áp dụng khi các nhà khoa học truyền các viên nhộng lipid có chứa các thuốc hóa trị nhạy cảm với nhiệt vào cơ thể bệnh nhân. Sau đó các sóng siêu âm tập trung được hướng đến chỗ khối u, theo như thử nghiệm này là ở gan của người bệnh. Sau đó sóng siêu âm sẽ làm tăng dần nhiệt độ của khối u lên mức trên 39.5 độ C, là mức nhiệt viên nhộng lipid chứa thuốc được thiết kế để phân hủy, qua đó thuốc sẽ được truyền trực tiếp đến khối u với mức chính xác cao hơn rất nhiều các dạng truyền thuốc khác.
Điểm hay nhất của phương pháp này đó là việc đưa thuốc đến thẳng nơi cần xử lý, thuốc không bị rơi rụng ra trên đường đi, hạn chế tối đa một trong những thách thức lớn nhất của các phương pháp điều trị ung thư đó là các nguy cơ dẫn đến tác dụng phụ của thuốc trong quá trình chạy đến khối u. Theo bác sỹ Coussios của đại học Oxford thì đây là công nghệ lần đầu tiên được áp dụng và đã cho kết quả rất khả quan trên 10 bệnh nhân đầu tiên được thử nghiệm. Kết quả cho thấy ngoài các tác dụng phụ đã được xác định của hóa trị và của quá trình gây mê thì không có những tác dụng không mong muốn nào khác. Sinh thiết từ các khối u của bệnh nhân cho thấy đã có sự khác biệt khá lớn khi tính theo mức trung bình thì lượng hóa trị được đưa đến khối u cao gấp 3.7 lần so với trước khi điều trị bằng phương pháp này.
Vì đây mới chỉ những bước đầu của thử nghiệm lâm sàng trên người, mặc dù các kết quả khá ổn nhưng các nhà nghiên cứu cũng chưa khẳng định đây là 1 cách hiệu quả trong điều trị. Vẫn còn phải trải qua nhiều pha nữa để đưa đến kết luận cuối cùng. Tuy nhiên đội ngũ nghiên cứu cũng khẳng định đây là một bước tiên quan trọng trong việc đa dạng hóa các cách tiếp cận với khối u của bệnh nhân ung thư. Nghiên cứu này cũng đã được xuất bản trên tạp chí Lancet để cộng đồng khoa học có thể tiếp cận, góp ý và cùng đưa thêm ý tưởng để phát triển.
Đây có thể coi là lần đầu tiên cách thức này được áp dụng khi các nhà khoa học truyền các viên nhộng lipid có chứa các thuốc hóa trị nhạy cảm với nhiệt vào cơ thể bệnh nhân. Sau đó các sóng siêu âm tập trung được hướng đến chỗ khối u, theo như thử nghiệm này là ở gan của người bệnh. Sau đó sóng siêu âm sẽ làm tăng dần nhiệt độ của khối u lên mức trên 39.5 độ C, là mức nhiệt viên nhộng lipid chứa thuốc được thiết kế để phân hủy, qua đó thuốc sẽ được truyền trực tiếp đến khối u với mức chính xác cao hơn rất nhiều các dạng truyền thuốc khác.
Điểm hay nhất của phương pháp này đó là việc đưa thuốc đến thẳng nơi cần xử lý, thuốc không bị rơi rụng ra trên đường đi, hạn chế tối đa một trong những thách thức lớn nhất của các phương pháp điều trị ung thư đó là các nguy cơ dẫn đến tác dụng phụ của thuốc trong quá trình chạy đến khối u. Theo bác sỹ Coussios của đại học Oxford thì đây là công nghệ lần đầu tiên được áp dụng và đã cho kết quả rất khả quan trên 10 bệnh nhân đầu tiên được thử nghiệm. Kết quả cho thấy ngoài các tác dụng phụ đã được xác định của hóa trị và của quá trình gây mê thì không có những tác dụng không mong muốn nào khác. Sinh thiết từ các khối u của bệnh nhân cho thấy đã có sự khác biệt khá lớn khi tính theo mức trung bình thì lượng hóa trị được đưa đến khối u cao gấp 3.7 lần so với trước khi điều trị bằng phương pháp này.
Vì đây mới chỉ những bước đầu của thử nghiệm lâm sàng trên người, mặc dù các kết quả khá ổn nhưng các nhà nghiên cứu cũng chưa khẳng định đây là 1 cách hiệu quả trong điều trị. Vẫn còn phải trải qua nhiều pha nữa để đưa đến kết luận cuối cùng. Tuy nhiên đội ngũ nghiên cứu cũng khẳng định đây là một bước tiên quan trọng trong việc đa dạng hóa các cách tiếp cận với khối u của bệnh nhân ung thư. Nghiên cứu này cũng đã được xuất bản trên tạp chí Lancet để cộng đồng khoa học có thể tiếp cận, góp ý và cùng đưa thêm ý tưởng để phát triển.
Tham khảo NewAtlas