Bệnh viện đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống hiện đại ngày nay, dù là ở quốc gia nào đi chăng nữa. Ở các nước phát triển, bệnh viện còn đóng vai trò là trung tâm nghiên cứu và giảng dạy chuyên sâu. Thế nhưng, ít ai biết rằng khái niệm về “bệnh viện” mà ta quen thuộc lại có một lịch sử kéo dài hàng nghìn năm.
Từ 4000 năm TCN, một số tôn giáo đã tin rằng các vị thần có khả năng chữa bệnh. Việc cúng tế và thành tâm cầu nguyện sẽ giúp đỡ bệnh nhân có thể thoát khỏi đau đớn. Cũng vì thế mà những ngôi đền trở thành trung tâm chữa bệnh.
Chẳng hạn như các bệnh viện Bà La Môn được thành lập ở Sri Lanka vào đầu năm 431 TCN. Vua Ashoka ở Ấn Độ còn xây dựng 1 hệ thống bệnh viện Hindu khắp đất nước. Hay khoảng năm 100 TCN, người La Mã cũng lập nên valetudinaria - bệnh viện quân y đầu tiên để chăm sóc cho binh lính bị thương hoặc mắc bệnh. Đây là hình thức bệnh viện chuyên biệt sớm nhất trong lịch sử. Tuy nhiên, các cơ sở này chủ yếu mang tính tôn giáo và chưa mở cửa cho công chúng như ngày nay.
Niềm tin tôn giáo
Từ 4000 năm TCN, một số tôn giáo đã tin rằng các vị thần có khả năng chữa bệnh. Việc cúng tế và thành tâm cầu nguyện sẽ giúp đỡ bệnh nhân có thể thoát khỏi đau đớn. Cũng vì thế mà những ngôi đền trở thành trung tâm chữa bệnh.
Chẳng hạn như các bệnh viện Bà La Môn được thành lập ở Sri Lanka vào đầu năm 431 TCN. Vua Ashoka ở Ấn Độ còn xây dựng 1 hệ thống bệnh viện Hindu khắp đất nước. Hay khoảng năm 100 TCN, người La Mã cũng lập nên valetudinaria - bệnh viện quân y đầu tiên để chăm sóc cho binh lính bị thương hoặc mắc bệnh. Đây là hình thức bệnh viện chuyên biệt sớm nhất trong lịch sử. Tuy nhiên, các cơ sở này chủ yếu mang tính tôn giáo và chưa mở cửa cho công chúng như ngày nay.
Đến thời Trung cổ ở châu Âu, người dân tin rằng nguồn gốc của bệnh tật là do các thế lực siêu nhiên và con người không thể can thiệp được. Vì thế mà tại các bệnh viện, việc chữa trị phần lớn nhằm “cứu rỗi linh hồn” nhiều hơn là điều trị căn bệnh. Một số người bệnh nặng thường bị đưa ra ngoài cổng thành, cách ly khỏi cộng đồng và sống dựa vào sự tài trợ từ thiện của giới giàu có. Tuy nhiên trong thế giới Hồi giáo, có một tư duy hoàn toàn khác về việc chăm sóc bệnh nhân đã được hình thành.
Bimaristan - ngôi nhà của người bệnh
Nhà tiên tri Muhammad từng nói: “Chúa không bao giờ tạo ra một căn bệnh gì trừ khi Ngài có thể chữa trị nó. Chúa đã gửi bệnh và cả phương pháp điều trị.”
Từ một số ghi chép của các lữ khách, bác sĩ và học giả Ả Rập - Ba Tư đã mô tả các bệnh viện thế giới Hồi giáo khi ấy chẳng khác nào những trung tâm phục hồi sang trọng ngày nay.
Một trong những bệnh viện nổi tiếng nhất là Bimaristan Nur al-Din ở Damascus, được xây dựng vào TK 12. Từ Bimaristan bắt nguồn từ tiếng Ba Tư, mang ý nghĩa là “ngôi nhà của người bệnh”.
Dưới triều đại Caliph Harun al-Rashid (753-809), thành Baghdad được cho là có đến hàng trăm Bimaristan (bệnh viện). Những cơ sở này đặt ra tiêu chuẩn đạo đức rất cao, được xem là tiền thân của bệnh viện hiện đại như ngày nay.
Quảng cáo
Những tiêu chuẩn ấy bao gồm việc điều trị miễn phí, cung cấp thuốc, chỗ ở sạch sẽ và bữa ăn đầy đủ. Bác sĩ phải chữa bệnh cho tất cả mọi người, không được phân biệt tôn giáo, địa vị giàu nghèo. Luật quy định rằng họ không được phép từ chối bất kỳ ai, kể cả người nghèo hay lữ khách qua đường. Tại bệnh viện, các bác sĩ Do Thái, Cơ đốc giáo hay Hồi giáo làm việc cùng nhau, tôn trọng và không phân biệt lẫn nhau.
Tấm hiến chương của bệnh viện Qalawun (Cairo) vào TK 13 ghi rõ:
“Bệnh viện phải tiếp nhận tất cả bệnh nhân, nam hay nữ, cho đến khi họ bình phục hoàn toàn. Mọi chi phí sẽ do bệnh viện chi trả. Bất kể họ đến từ đâu, giàu hay nghèo, khoẻ mạnh hay yếu đuối, người địa phương hay lữ khách, có học hay mù chữ, mắc bệnh thể chất hay tâm thần đều phải tiếp nhận.”
Qalawun không chỉ là bệnh viện mà còn có trường học và cả lăng mộ, được xem là trung tâm y học và giáo dục tiêu biểu của thời Mamluk.
Giáo sư Victor Palleja de Bustinza từng viết trên tạp chí NatGeo rằng, tại Baghdad người giàu hay người nghèo đều có cơ hội được phẫu thuật bởi những danh y hàng đầu như Abu Bakr Muhammad ibn Zakariya al-Razi (hay còn gọi là Rahzes) - một trong những bác sĩ vĩ đại nhất vào thời đó.
Quảng cáo
Tổ chức và vận hành
Các bệnh viện (Bimaristan) được chia thành nhiều khoa riêng biệt như bệnh truyền nhiễm, bệnh về mắt, khoa ngoại và nội. Rhazes được ghi nhận là người đầu tiên lập ra khoa tâm thần trong bệnh viện ở Baghdad. Trong khi ở châu Âu thời đó, người bị rối loạn tâm thần vẫn bị xem là “bị quỷ ám”.
Mỗi khoa đều sẽ có một nhân viên phụ trách mà một chuyên gia giám sát cùng đội ngũ dược sĩ (saydalani) và y tá chuyên nghiệp. Ngoài ra, Sa'ur- giám đốc sẽ chịu trách nhiệm giám sát việc quản lý toàn bộ tổ chức.
Bác sĩ có giờ làm việc cố định và khám bệnh trực tiếp cho các bệnh nhân tại khoa của mình. Họ được trả lương cố định theo quy định của pháp luật, một mức lương đủ cao để thu hút nhân tài.
Bimaristan mở cửa suốt 24 giờ và miễn phí cho tất cả mọi người. Các bệnh viện lớn có 2 khu riêng biệt dành cho nam và nữ, với cơ sở vật chất giống hệt nhau. Tại khu riêng cho nữ, còn có bác sĩ nữ để chuyên khám những bệnh nhạy cảm cho phụ nữ. Đôi khi ở những bệnh không nhạy cảm, vẫn sẽ có bác sĩ khám cho cả 2 giới.
Trường Y
Một trong những công việc quan trọng nhất của các Bimarista chính là đào tạo các thầy thuốc tương lai. Hầu hết bệnh viện sẽ được xây gần trường học, để sinh viên y khoa có thể theo bác sĩ đi thăm bệnh và ghi chép hồ sơ lâm sàng, một mô hình rất gần với bệnh viện hiện đại ngày nay.
Mỗi bệnh viện đều có các giảng đường lớn, nơi các sinh viên, bác sĩ sẽ cùng nhau thảo luận các ca bệnh theo kiểu hội chẩn.
Sau quá trình học và thực hành, sinh viên phải vượt qua kỳ thi để được cấp phép hành nghề. Bước đầu là viết luận án, có thể là công trình nghiên cứu riêng hoặc bình luận các tác phẩm y học của những danh y thời đó. Sau đó, họ sẽ thi đối đáp với bác sĩ trưởng, người sẽ đặt ra các câu hỏi chuyên môn. Nếu trả lời đúng, họ sẽ được cấp giấy phép.
Vệ sinh và sự tiện nghi
Thiết kế bệnh viện cũng phản ánh sự khác biệt trong suy nghĩ. Nếu như ở châu Âu, giường bệnh thường được quay về hướng nhà thờ để bệnh nhân tham dự Thánh lễ. Phòng được thiết kế tối tăm và ẩm thấp. Thì ở các thành phố Hồi giáo, nơi chủ yếu là khí hậu khô và ấm hơn, các bệnh viện được thiết kế thoáng, để lấy tối đa ánh sáng và không khí bên ngoài.
Tại bệnh viện (Bimaristan) Argun ở Aleppo (Syria) vào Tk 14, bệnh nhân tâm thần được chữa trị bằng liệu pháp ánh sáng, không khí trong lành và âm nhạc. Các bác sĩ Hồi giáo khi ấy rất coi trọng sức khoẻ tinh thần, vì thế mà bệnh viện cũng được thiết kế sân vườn xanh mát, đài phun nước, hương hoa lài và cả tiếng nhạc du dương, tất cả đều để tạo cảm giác thoải mái và thư giãn nhất cho người bệnh. Nơi này hiện đã trở thành 1 bảo tàng.
Các bác sĩ Hồi giáo thời Trung cổ đã rất chú trọng đến vấn đề vệ sinh và môi trường sống. Trước khi xây dựng một bệnh viện mới ở Baghdad, Caliph al Muqtafi (875-908) đã giao cho danh y Rhazes nhiệm vụ tìm kiếm địa điểm phù hợp.
Rhazes đã nghĩ ra một cách cực kỳ sáng tạo, ông treo những miếng thịt tươi ở nhiều nơi khác nhau trong thành phố. Ông sẽ quan sát xem khu vực nào thì thịt lâu bị ôi thiu nhất. Và ông sẽ chọn nơi đó để xây dựng bệnh viện. Bởi theo quan niệm thời đó, nơi làm miếng thịt hư chậm nhất là nơi có không khí trong lành, ít mầm bệnh, cũng là nơi tốt nhất cho sức khoẻ con người
Bệnh nhân nội trú sẽ được phát đồng phục ngay khi vừa nhập viện, còn quần áo của họ thì được lưu giữ riêng trong kho. Mỗi ngày, đều có thanh tra vệ sinh đi kiểm tra và đôi khi nhà vua hay các quan chức cũng sẽ đích thân đi giám sát chất lượng điều trị của bệnh viện.
Chế độ điều trị và dinh dưỡng
Ngay khi vừa nhập viện, bệnh nhân sẽ được khám và lập phác đồ điều trị ngay lập tức. Thức ăn được chế biến theo chế độ ăn riêng của từng loại bệnh. Một tiêu chuẩn thú vị để đánh giá mức độ hồi phục của bệnh nhân là: người đó có thể ăn hết 1 lượng bánh mì bằng người khoẻ mạnh, cùng với 1 con chim nướng mà không gặp khó khăn gì. Nếu làm được điều đó, họ sẽ được xem như là khoẻ bệnh và có thể xuất viện.
Nếu không thể, họ sẽ được chuyển sang khu phục hồi và sẽ ở đến khi đủ điều kiện để xuất viện.
Vào TK 13, bác sĩ kiêm học giả Abd al-Latif ak-Bahdadi, người từng giảng dạy ở Damascus đã kể lại một câu chuyện thú vị về một chàng trai người Ba Tư. Vì cảm thấy hài lòng với phúc lợi tại bệnh viện Nuri, mà anh ta đã giả vờ bị bệnh để để được vào nằm điều trị. Vị bác sĩ khám cho anh đã nhanh chóng phát hiện trò lừa, nhưng vẫn cho anh nhập viện, chăm sóc và cho anh ăn ngon suốt 3 ngày. Đến ngày thứ 4, bác sĩ đến bên giường bệnh và nói: “Theo truyền thống hiếu khách của người Ai Cập, 3 ngày là đủ. Giờ anh có thể về nhà rồi”.
Tài chính
Điều đặc biệt là hệ thống bệnh viện gần như “tự vận hành” nhờ vào waqf, quỹ từ thiện tôn giáo. Trong Hồi giáo, việc đóng góp zakat (thuế từ thiện bắt buộc) là một trong 5 trụ cột của đức tin, nên nhiều bệnh viện được vận hành hoàn toàn bằng sự quyên góp của giới quý tộc, thương nhân. Người giàu có hoặc giới quý tộc có thể hiến tặng đất đai, cửa hàng, nhà máy,… và lợi nhuận từ đó có thể dùng để vận hành bệnh viện. Ngoài ra, nhà nước cũng chi một phần ngân sách cho y tế.
Một số bệnh viện lớn như Bimaristan Al-Nuri ở Damascus (Syria, 1154 SCN) ngày nay đã không còn hoạt động, nhưng vẫn còn tồn tại và được bảo tồn như một di tích lịch sử.
Theo (1), (2)

