Những ngày qua, ngành y thế giới có lẽ vẫn còn đang xôn xao về một thành tích mới vô cùng kinh ngạc: những con cừu non có thể phát triển một cách bình thường trong tử cung nhân tạo suốt 4 tuần. Hệ thống phức tạp này bao gồm những chiếc túi nhựa chứa đầy chất lỏng và trong vòng 3 năm tới, kỹ thuật tương tự được kỳ vòng có thể được sử dụng dành cho những đứa trẻ sinh non. “Chúng tôi đã phát triển một hệ thống với khả năng tái tạo môi trường bên trong tử cung và thay thế chức năng của nhau thai tự nhiên”, Alan Flake đến từ Bệnh viện Nhi Philadelphia thuộc bang Pennsylvania (Mỹ), người đứng đầu cuộc nghiên cứu, cho biết.
“Thật tuyệt vời. Mọi người đã nỗ lực để thực hiện điều này từ lâu”, Giáo sư Neil Marlow tại Đại học College London, chia sẻ. Bên cạnh đó, ông cũng lưu ý rằng hệ thống này cần phải trải qua nhiều năm thử nghiệm nhằm đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ sơ sinh. Nếu thành công, công nghệ mới sẽ cứu sống được rất nhiều sinh mạng. Theo thống kê, sinh non chính là nguyên nhân phổ biến nhất dẫn đến tử vong ở trẻ sơ sinh. Flake cho biết trẻ chào đời khi chỉ mới 22 - 24 tuần tuổi thay vì 40 tuần có cơ hội sống sót chỉ 10%.
Thậm chí nếu may mắn sống sót, đứa bé sau này lớn lên dễ bị mắc các chứng rối loạn và khyết tật, chẳng hạn như thị lực/ thính lực kém hoặc tệ hơn là bại não. “Các cơ quan của họ rất nhỏ, đơn giản là vì họ được sinh ra vào lúc chưa sẵn sàng”, Flake giải thích thêm. Khi sinh non, trẻ sẽ được nuôi trong những lồng ấp, song vì những hạn chế về mặt kỹ thuật nên chúng dễ bị nhiễm trùng và tổn thương phổi do phải chuyển không khí từ ngoài vào để hô hấp.
Không giống với lồng ấp, hệ thống túi nhựa mà các nhà khoa học vừa phát triển sẽ cung cấp một môi trường kín đáo để bảo vệ thai nhi tránh khỏi nhiễm trùng. Nằm mô phỏng môi trường bên trong tử cung, nhóm các chuyên gia đã bơm vào trong đó chất lỏng chứa nước và muối. Thay thế cho nhau thai (bộ phận giúp cung cấp cho bào thai oxy và các chất dinh dưỡng), các nhà khoa học đã kết nối các thiết bị dưỡng khí vào dây rốn của những con cừu non đang phát triển. Thay vì bơm oxy tự do vào các con cừu, nhóm nghiên cứu đã phát triển một kỹ thuật sử dụng nhịp tim của con vật để chi phối việc thu nhận oxy từ thiết bị. Các nhà nghiên cứu hy vọng cách truyền oxy này sẽ tốt hơn các máy thở đang được dùng cho trẻ sinh non, thứ có thể gây tổn thương cho phổi của chúng.
“Thật tuyệt vời. Mọi người đã nỗ lực để thực hiện điều này từ lâu”, Giáo sư Neil Marlow tại Đại học College London, chia sẻ. Bên cạnh đó, ông cũng lưu ý rằng hệ thống này cần phải trải qua nhiều năm thử nghiệm nhằm đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ sơ sinh. Nếu thành công, công nghệ mới sẽ cứu sống được rất nhiều sinh mạng. Theo thống kê, sinh non chính là nguyên nhân phổ biến nhất dẫn đến tử vong ở trẻ sơ sinh. Flake cho biết trẻ chào đời khi chỉ mới 22 - 24 tuần tuổi thay vì 40 tuần có cơ hội sống sót chỉ 10%.
Thậm chí nếu may mắn sống sót, đứa bé sau này lớn lên dễ bị mắc các chứng rối loạn và khyết tật, chẳng hạn như thị lực/ thính lực kém hoặc tệ hơn là bại não. “Các cơ quan của họ rất nhỏ, đơn giản là vì họ được sinh ra vào lúc chưa sẵn sàng”, Flake giải thích thêm. Khi sinh non, trẻ sẽ được nuôi trong những lồng ấp, song vì những hạn chế về mặt kỹ thuật nên chúng dễ bị nhiễm trùng và tổn thương phổi do phải chuyển không khí từ ngoài vào để hô hấp.
Không giống với lồng ấp, hệ thống túi nhựa mà các nhà khoa học vừa phát triển sẽ cung cấp một môi trường kín đáo để bảo vệ thai nhi tránh khỏi nhiễm trùng. Nằm mô phỏng môi trường bên trong tử cung, nhóm các chuyên gia đã bơm vào trong đó chất lỏng chứa nước và muối. Thay thế cho nhau thai (bộ phận giúp cung cấp cho bào thai oxy và các chất dinh dưỡng), các nhà khoa học đã kết nối các thiết bị dưỡng khí vào dây rốn của những con cừu non đang phát triển. Thay vì bơm oxy tự do vào các con cừu, nhóm nghiên cứu đã phát triển một kỹ thuật sử dụng nhịp tim của con vật để chi phối việc thu nhận oxy từ thiết bị. Các nhà nghiên cứu hy vọng cách truyền oxy này sẽ tốt hơn các máy thở đang được dùng cho trẻ sinh non, thứ có thể gây tổn thương cho phổi của chúng.
Trong các thử nghiệm, nhóm nghiên cứu đã sử dụng các con cừu nằm trong độ tuổi từ 15 - 17 tuần cho đến những con đủ 21 tuần tuổi trong chu kỳ mang thai. Chúng được lấy ra bằng biện pháp mổ lấy thai, sau đó cẩn thận đặt vào những chiếc túi nhựa, kết nối với thiết bị cung cấp oxy và được theo dõi một cách cẩn thận. Những con cừu được giữ trong túi 4 tuần. Hầu hết trong số chúng đều được kiểm tra kỹ lưỡng và cho chết một cách nhẹ nhàng. Tất cả đều phát triển lành mạnh và nhóm nghiên cứu không tìm thấy bất cứ bất thường nào trong não bộ và phổi của chúng. “Tất cả những thông số đo được đều bình thường”, Flake nói.
Một số con cừu cũng được “chào đời” khi các nhà khoa học lấy chúng ra khỏi “tử cung”. Cá thể cừu thử nghiệm lớn nhất giờ đã được 1 tuổi và vẫn khỏe mạnh. Hiện nhóm nghiên cứu đang làm việc với Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ để phát triển một hệ thống dành cho trẻ sơ sinh. Với thiết bị này, họ hy vọng có thể cung cấp môi trường nhằm hỗ trợ sự sống cho trẻ sơ sinh chào đời trong khoảng 24-28 tuần tuổi bởi thời điểm này, tỷ lệ sống sót cao hơn nhiều. Nhận xét về kế hoạch này, Tiến sĩ Mark Turner đến từ Đại học Liverpool, Anh cho rằng nó “rất hợp lý”.
Tuy nhiên, Turner lại tỏ ra thận trọng với mục đích của nhóm là bắt đầu các thử nghiệm thiết bị trên trẻ sơ sinh trong vòng 3 đến 5 năm nữa. "Tôi lo lắng về khả năng thu thập thông tin một cách chính xác. Một số phương pháp điều trị cho trẻ sơ sinh trước đó đã được thông qua, nhưng tác hại của chúng chỉ được tìm thấy sau đó”, Turner cho biết. Lấy ví dụ về câu chuyện xảy ra vào những năm 1960, khi trẻ sơ sinh thường nhận quá nhiều oxy trong lồng ấp. Điều này đã phá vỡ sự hình thành mạch máu và trong một số trường hợp, võng mạc cũng bị tổn thương. “Hàng ngàn trẻ em đã bị mù vì lý do đó, kể cả Stevie Wonder”. Nếu hệ thống thật sự có thể làm việc hiệu quả trên người, nó chỉ vẫn chỉ hữu ích cho khoảng 1/2 số trẻ sinh non, khi chúng đã sẵn sàng cho phẫu thuật mổ bắt con.
Đối với hệ thống dành cho con người, Flake và các cộng sự của ông hy vọng có thể thực hiện những cải tiến đối với dung dịch bên trong tử cung nhân tạo. Dung dịch này sẽ bao gồm các chất dinh dưỡng cũng như nước tiểu của bào thai. Nhóm nghiên cứu hy vọng có thể bổ sung thêm một số chất vào trong dung dịch này để hỗ trợ quá trình phát triển ruột. Ngoài ra, diện mạo của hệ thống dành cho trẻ cũng không giống như những gì chúng ta nhìn thấy ở những thử nghiệm trên cừu. "Tôi không muốn liệu pháp này được hình dung như những bào thai trong túi được treo lủng lẳng trên tường”, Flake nói.
Ông cho biết thiết bị này cuối cùng sẽ giống như một lò ấp với vỏ bọc bên ngoài còn bên trong thì tối đen. Ông cũng lên kế hoạch sản xuất thiết bị "bố mẹ thân thiện", cho phép cha mẹ truyền âm thanh cho bé và xem theo dõi chúng thông qua một camera, tuy nhiên điều này cũng cần phải cân nhắc. Nhìn chung, giáo sư Neil Marlow tỏ ra lạc quan về hệ thống, nhưng cũng bày tỏ mối quan tâm tương tự như Turner. Marlow nói: "Bất cứ thứ gì nhẹ nhàng hơn và can thiệp ít vào sự phát triển bình thường đều được hoan nghênh. Nhưng chúng ta cũng cần phải theo dõi những rủi ro”.
Tham khảo: NewScientist