Ở thời điểm cao trào của Chiến tranh lạnh, một chiếc tàu ngầm của Xô viết đã bị chìm một cách bí ẩn tại biển Thái Bình Dương vào ngày 8/3/1968. Chiếc tàu mang số hiệu K-129 chở theo 98 thủy thủ nhưng điều quan trọng nhất là nó còn (có thể) mang theo tên lửa hạt nhân. Sau sự cố đó, Hải quân Mỹ nhận thấy Xô Viết đã tổ chức rất nhiều hoạt động để định vị chiếc tàu đắm nhưng vẫn chưa thành công nên Mỹ nghĩ rằng đây là cơ hội để họ tiếp cận những bí mật quân sự của đối thủ. Mỹ quyết định sẽ định vị và đánh cắp chiếc tàu đó, tuy nhiên ở thời điểm 1968 thì các kĩ thuật và công nghệ khi đó vẫn chưa đủ để vớt một xác tàu khổng lồ đắm ở độ sâu 4,8km. Vậy Mỹ đã làm thế nào?
Câu chuyện bên dưới được viết lại bởi tác giả, nhà báo Josh Dean trong cuốn sách The Taking of K-129: How the CIA Used Howard Hughes to Steal a Russian Sub in the Most Daring Covert Operation in History.
Glomar Explorer - kiệc tác tàu biển
K-129 là chiếc tàu ngầm động cơ điện - diesel thuộc Hạm đội Thái Bình Dương của Xô Viết. Nó là 1 trong 6 chiếc tàu ngầm tác chiến có khả năng mang tên lửa hạt nhân thuộc đội tàu ngầm đóng tại căn cứ hải quân Rybachiy ở Kamchatka. Đô đốc Rudolf A. Golosov là người lãnh đạo hạm đội.
Vào tháng 8/3/1968, K-129 mang số đuôi 722 khi đang thực hiện nhiệm vụ thì bị chìm một cách bí ẩn. Đây là một trong số 4 chiếc tàu ngầm mất tích chỉ trong năm 1968 mà người ta chưa biết lý do vì sao. Những chiếc còn lại là tàu Dakar của Israeli, Minerve của Pháp và Scorpion của Mỹ.
Câu chuyện bên dưới được viết lại bởi tác giả, nhà báo Josh Dean trong cuốn sách The Taking of K-129: How the CIA Used Howard Hughes to Steal a Russian Sub in the Most Daring Covert Operation in History.
Glomar Explorer - kiệc tác tàu biển
K-129 là chiếc tàu ngầm động cơ điện - diesel thuộc Hạm đội Thái Bình Dương của Xô Viết. Nó là 1 trong 6 chiếc tàu ngầm tác chiến có khả năng mang tên lửa hạt nhân thuộc đội tàu ngầm đóng tại căn cứ hải quân Rybachiy ở Kamchatka. Đô đốc Rudolf A. Golosov là người lãnh đạo hạm đội.
Vào tháng 8/3/1968, K-129 mang số đuôi 722 khi đang thực hiện nhiệm vụ thì bị chìm một cách bí ẩn. Đây là một trong số 4 chiếc tàu ngầm mất tích chỉ trong năm 1968 mà người ta chưa biết lý do vì sao. Những chiếc còn lại là tàu Dakar của Israeli, Minerve của Pháp và Scorpion của Mỹ.
Giả thiết chính thức được Hải quân Xô Viết đặt ra đó là chiếc K-129 trong lúc lặn đã vượt qua độ sâu mà nó được phép hoạt động. Sự kiện này kết hợp với hỏng hóc máy móc và phản ứng không thích hợp của thủy thủ đoàn đã khiến nước tràn vào quá nhiều làm đắm tàu.
Tuy nhiên nhiều người không đồng ý với giả thuyết trên và họ đặt ra một số giả thuyết khác liên quan đến vụ việc:
- Một vụ nổ pin hydron khi đang sạc
- Va chạm với tàu USS Swordfish của Mỹ
- Một tên lửa phát nổ do seal cửa khoang chứa bị rò rỉ
- Lỗi cố ý hoặc vô tình của thủy thủ đoàn K-129 vì tàu đã vi phạm quy trình hoạt động thông thường và / hoặc ra khỏi phạm vi được phép hoạt động
Để vớt được chiếc tàu ngầm K-129 cần tới một chiếc tàu khổng lồ tên Glomar Explorer. Nó không giống bất kì chiếc tàu nào từng được con người làm ra. Phần giữa của boong tàu dài 600 foot, tương đương 182m, nơi đặt một chiếc cần cẩu khổng lồ dùng để đặt 5km đường ống kim loại xuống đáy biển. Tàu cũng có một cánh tay gắp rất lớn có thể thả sâu 4,8km để gắp chiếc tàu ngầm lên rồi cất vào trong khoang trống khổng lồ.
Vì là một trong những con tàu lớn nhất từng được đóng nên Glomar Explorer rất dễ bị phát hiện. Nó quá lớn tới mức có thể bị phát hiện từ không gian, trong khi lại buộc phải hoạt động ở vùng biển quốc tế và chạy một cách công khai nên CIA phải nghĩ ra câu chuyện nào đó để phía Nga không nghi ngờ hành động của họ. Sau khi bàn bạc, CIA quyết định xây dựng một câu chuyện rằng chiếc Glomar Explorer được làm ra để nghiên cứu và thăm dò đáy biển phục vụ cho việc khai thác maganese nodule, ngành chưa hề xuất hiện vào thời điểm đó.
Để củng cố, họ còn nói thêm rằng con tàu này được sở bữu bởi tỉ phú Howard Hughes (ông này đồng ý giúp CIA) và dùng cho chính công ty Global Marine Development Inc của ông. Số tiền dùng để đóng tàu là 350 triệu USD, quy ra ngày nay là 1,7 tỉ USD. Tàu được đóng từ năm 1973 đến 1974.
Chưa hết, CIA còn thuê một số chuyên gia viết các báo cáo khoa học liên quan đến việc thăm dò và đóng tàu, giới thiệu Glomar Explorer đến các hội nghị khoa học và các tạp chí, thậm chí còn "rò rỉ" toàn bộ câu chuyện ra báo giới để họ nói nhiều về nó trên các tin tức. Đây là một chiếc lược thông minh để tránh Nga nghi ngờ.
Tác giả Dean nói: "Tôi gọi đây là công cụ tinh tế nhất từng được chế tạo. Nó không được làm ra để nhắm tới tương lai xa hay phục vụ nhiều thứ. Nó được thiết kế để làm một thứ duy nhất, đó là gắp 2 triệu pound (900 tấn) thép khổng lồ lên khỏi đáy biển". Vào thời đó, năng lực của chiếc tàu này vượt qua tất cả mọi cỗ máy trên thế giới nên việc chế tạo nó đòi hỏi rất nhiều trí lực, một khoản tiền lớn 9 con số, đồng thời cần tới công cụ khoa học, những học giả và nhà thầu tốt nhất của Mỹ.
Quảng cáo
Thực ra những nỗ lực dạng này không phải là hiếm ở những năm 1960 - 1970. Ở thời này, nếu có một thách thức hay tiến bộ khoa học kỹ thuật nào được đặt ra mà người ta tin rằng họ có thể giải quyết nó, chính phủ thường là nguồn tài trợ chính. NASA là một ví dụ, cơ quan này đã tài trợ cho không biết bao nhiêu dự án liên quan đến hàng không và vũ trụ cũng như khoa học máy tính. Dean tin rằng CIA cũng là một nguồn tài trợ lớn cho các dự án tuy rằng những thứ này thường được che giấu kĩ hơn do liên quan tới an ninh quốc gia.
"Bởi vì bản chất bí mật của CIA nên chuyện này không được nhiều người biết, nhưng Giám đốc khoa học và kĩ thuật khi ấy rất tin vào những thứ như thế này", Dean nói. "Trong ít hơn 20 năm, họ đã làm ra U2, chiếc máy bay do thám bay cao nhất, họ làm cả SR-71, hiện vẫn là một trong những chiếc may bay nhanh nhất từng được con người chế tạo. Nhưng riêng cho trường hợp của Glomar Explorer, lúc ấy là đỉnh điểm của Chiến tranh lạnh nên người ta nói rằng sự tồn tại của quốc gia và của cả thế giới phụ thuộc vào những thứ như thế này".
Giống với nhiều chương trình thử nghiệm khác của thời đó, các công nghệ được phát triển cho chiếc Glomar Explorer lại có thể được dùng cho những thứ khác. "Định vị động là một thứ như thế", Dean nói. Công nghệ này sử dụng các động cơ đẩy ở những góc tàu để lái tàu đi theo đúng đường dựa theo vị trí của những "con dấu" đặc biệt được thả xuống lòng biển. Công nghệ này quan trọng với ngành khoan dầu và thậm chí còn trở thành một tiêu chuẩn được sử dụng rộng rãi vì nó cho phép tàu thả khoan xuống đúng vị đang khoan trước đó.
Glomar Explorer cũng là một trong những con tàu đầu tiên, nếu không phải là chiếc đầu tiên, sử dụng hệ thống định vị vệ tinh nhằm đảm bảo nó đi đúng chỗ trên bản đồ. Dean nhận xét đây là những tiến bộ vượt bậc vào những năm mà GPS còn chưa ra đời. Tất cả đều được vận hành bởi những chiếc máy tính đầu tiên được gắn lên tàu biển, tất nhiên khi đó kích thước của chúng vẫn còn rất lớn và mỗi máy tính bự bằng cả một căn phòng.
Nhưng vượt trên tất cả, điều đáng kinh ngạc nhất là nỗ lực của con người đã dồn vào để thiết kế, chế tạo nên chiếc tàu khổng lồ này cùng những hệ thống hiện đại nêu trên. Nói về nhóm kĩ sư, Dean cho hay tất cả đều được thiết kế bằng thước kẻ và máy tính chứ thời đó làm gì có những hệ thống mô phỏng hiện đại như bây giờ, làm gì có những mô hình 3D có thể vẽ ra trên màn hình. "Những anh chàng này về cơ bản là toàn dùng bút chì và giấy mà thôi".
Quảng cáo
Ngoài công dụng bí mật là đi câu một chiếc tàu ngầm, thực chất chiếc Glomar Explorer và những câu chuyện do CIA dựng nên cũng đã tạo ra một cuộc chạy đua khám phá đáy biển trên toàn thế giới. Nhiều quốc gia bắt đầu đóng những chiếc tàu kĩ thuật cao để thăm dò đáy biển cũng như phục vụ mục đích thăm dò dầu khí. Nga đương nhiên không nằm ngoài cuộc chơi, mà rõ là họ đã cắn câu từ câu chuyện của Glomar Explorer rồi.
Chiến dịch trục vớt và số phận của Glomar Explorer sau đó
Quay trở lại chiến dịch trục vớt xác tàu ngầm, chiến dịch này ban đầu được biết tới cái tên Project Jennifer và nó lần đầu được tiết lộ ra công chúng vào tháng 2 năm 1975 khi thông qua tờ Los Angeles Times. Tuy nhiên, mãi tới năm 2010, theo luật tiết lộ tự do thông tin yêu cầu giải mật nhiều tài liệu sau vài chục năm, người ta mới biết tên mã của dự án thực chất là Project Azorian.
Lúc đầu, tàu được gửi đi thử nghiệm tại đảo Catalina ở bang California. Nó có thể bốc thành công các module giả được thả dưới biển. Tuy nhiên có một vấn đề: "Chúng tôi bốc nhiều hơn so với những gì chúng tôi dự tính và đã làm kẹt hệ thống", Steve Bailey, một kĩ sư cơ khí vận hành cánh tay cẩu, cho biết. "Và một khi nó bị kẹt, chúng tôi không thể làm gì để gỡ nó ra cả". Chưa rõ sau đó thì làm sao tàu về lại cảng, có lẽ bạn phải đọc cuốn sách trên để biết.
Cần nâng được cho là nơi giữ tàu ngầm K-129 bên trong chiếc Glomar Explorer
Theo quyển sách Red Star Rogue (2005) năm 2005, dự án Azorian đã trục vớt được gần như mọi thứ từ chiếc K-129 từ đáy biển. Tác giả Kenneth Sewell nói: "Mặc dù nhiều nỗ lực che giấu và nói rằng dự án này thất bại nhưng hầu như mọi thứ của chiếc K-129 cùng thủy thủ đoàn của nó đã được kéo lên từ đáy Thái Bình Dương và chứa trong khoang bí mật của tàu Glomar Explorer". Nhưng cũng có những nguồn tin khác nói rằng chỉ có 38 feet, tương đương 11,58m phần đầu của K-129 được trục vớt.
Sự thật của dự án này chưa bao giờ được khẳng định bởi CIA. Các quan chức Mỹ cho rằng việc tiết lộ dự án sẽ dẫn đến việc lộ những thông tin rất quan trọng về an ninh quốc gia nên các hồ sơ, hình ảnh, video và bất kì tài liệu nào liên quan đến chiến dịch trục vớt đều được giữ bí mật. Một vài hình ảnh xuất hiện trong một phim tài liệu năm 2010 có cho thấy xác tàu của chiếc K-129 đã bị hư hỏng nghiêm trọng, trong đó chỉ khoan tên lửa bị hỏng khá nặng và chỉ còn 1 ống phóng còn gắn vào cấu trúc của tàu.
Tháng 10/1992, Robert Gates, giám đốc CIA, đến thăm Moscow và gặp Tổng thống Boris Yeltsin. "Như là một cử chỉ thiện chí, một dấu hiệu của thời đại mới, tôi mang theo bên mình lá cờ Xô Viết đã quấn quanh quan tài của 6 thủy thủ được trục vớt lên từ chiếc Glomar Explore khi nó bốc những phần còn lại của chiếc tàu tác chiến tên lửa từ sâu trong lòng biển Thái Bình Dương vào những năm 1970. Tôi cũng cầm cho Yeltsin một video của khu vực mà tàu bị đắm, cùng với tất cả lời cầu nguyện cho những người đã chết và quốc ca Xô Viết".
HMB-1, tàu nổi đi kèm theo chiếc tàu Glomar Explorer
Khi Glomar Explorer đã kết thúc nhiệm vụ, có một số kế hoạch liên quan đến việc dùng tàu trở lại để thật sự khai thác khoáng sản và kim loại từ lòng biển. Bailey nói: "Lockheed vẫn đang sở hữu một số quyền với phần đáy biển mà chúng tôi đã làm việc. Có người ước tính rằng với tốc độ tiêu thụ niken hiện nay, nguồn nguyên liệu này sẽ cạn kiệt trong vài năm tới, và một số module lại chứa nhiều niken trong đó. Cũng có những nodule chứa nhiều nguyên tố hiếm, mà những nguyên tố đó hiện chỉ được khai thác tại Trung Quốc. Biết đâu sau này người ta lại hứng thú với nó thì sao".
Tháng 9/1978, Công ty Khoáng sản Đại dương Mỹ ở California tuyên bố họ đã thuê lại Glomar Explorer và tháng 11 năm ấy sẽ tiến hành thử nghiệm một hệ thống khai khác mới. Tới năm 1997, tàu được đem về sửa chửa, nâng cấp để chuyển đổi thành một con tàu khoan dầu với chi phí hơn 180 triệu USD (tương đương 268 triệu USD hiện nay) và đã hoàn thành trong quý 1 của năm 1998.
Năm 2010, công ty Transocean mua lại chiếc tàu này với giá chỉ còn 15 triệu USD, sau đó nó được đưa về Vanuatu trong quý 3 năm 2013. Tháng 4/2015, Transocean thông báo con tàu sẽ được xẻ ra bán phế liệu, và tờ tạp chí World Ship Society số tháng 11/2015 cho hay tàu đã được kéo tới một nơi chuyên xử lý xác tàu tại Trung Quốc vào 5/7/2015.
Thêm một video tài liệu nữa về K-129, trong đó đặt ra giả thuyết có điệp viên và tên lửa đang ở vị trí sẵn sàng phóng