Kết quả từ một phân tích hồi cứu dựa vào dữ liệu đăng ký quốc gia Đan Mạch đăng trên Brain vào tháng 3/2022 cho thấy nguy cơ tiến triển Alzeimer thấp hơn ở nhóm chẹn beta có tính thấm hàng rào máu não (BBB) cao (carvedilol, propranolol) so với nhóm tính thấm BBB thấp (atenolol, bisoprolol) với độ khác biệt nguy cơ tuyệt đối -0.47%, 95% CI -0.85 đến -0.1%.
Dù vậy, nguy cơ tiến triển sa sút trí tuệ chung là tương tự nhau giữa các nhóm. Đồng thời, nguy cơ tử vong cũng cao hơn ở nhóm tính thấm BBB cao và trung bình (metoprolol) so với nhóm tính thấm BBB thấp.
Các tác giả đưa ra giả thuyết rằng thuốc chẹn beta có tính thấm BBB cao có thể làm giảm nguy cơ mắc Alzheimer bằng cách tăng thải chất chuyển hóa dịch não tủy ở người bệnh tăng huyết áp. Tỷ lệ tử vong cao hơn ở nhóm chẹn beta có tính thấm BBB cao cũng được các tác giả giải thích là người bệnh nhóm này có nhiều bệnh kèm hơn với tỷ lệ đái tháo đường, đột quỵ, trầm cảm, COPD cao hơn hẳn. Các nghiên cứu sau đó nên thêm các dấu ấn sinh học của bệnh Alzheimer để giúp hiểu rõ hơn về cách thuốc chẹn beta ảnh hưởng đến nguy cơ Alzheimer ở người bệnh tăng huyết áp.
Link fulltext: https://academic.oup.com/brain/advance-article/doi/10.1093/brain/awac076/6535129
Dù vậy, nguy cơ tiến triển sa sút trí tuệ chung là tương tự nhau giữa các nhóm. Đồng thời, nguy cơ tử vong cũng cao hơn ở nhóm tính thấm BBB cao và trung bình (metoprolol) so với nhóm tính thấm BBB thấp.
Các tác giả đưa ra giả thuyết rằng thuốc chẹn beta có tính thấm BBB cao có thể làm giảm nguy cơ mắc Alzheimer bằng cách tăng thải chất chuyển hóa dịch não tủy ở người bệnh tăng huyết áp. Tỷ lệ tử vong cao hơn ở nhóm chẹn beta có tính thấm BBB cao cũng được các tác giả giải thích là người bệnh nhóm này có nhiều bệnh kèm hơn với tỷ lệ đái tháo đường, đột quỵ, trầm cảm, COPD cao hơn hẳn. Các nghiên cứu sau đó nên thêm các dấu ấn sinh học của bệnh Alzheimer để giúp hiểu rõ hơn về cách thuốc chẹn beta ảnh hưởng đến nguy cơ Alzheimer ở người bệnh tăng huyết áp.
Link fulltext: https://academic.oup.com/brain/advance-article/doi/10.1093/brain/awac076/6535129