Đường là gia vị phổ biến trong cuộc sống của chúng ta, đường cát trắng, đường vàng, đường nâu, đường phèn … các loại đường khác nhau có hương vị khác nhau. Mặc dù tất cả chúng đều được tinh chế từ mía, nhưng do quy trình sản xuất khác nhau, dẫn đến các thành phần khác nhau, điều này làm cho các loại đường này có tác dụng xấu tốt khác nhau.
- Đường phèn
Bởi vì sự kết tinh của nó giống như băng, do đó nó còn có tên là băng đường. Đường phèn đã được sản xuất ở Trung Hoa cổ vào thời nhà Hán, có vị ngọt thanh mát và không béo ngậy, có thể được sử dụng như một gia vị cho các món ăn bổ dưỡng.
Y học cổ truyền Trung Hoa tin rằng, đường phèn tính bình, vị ngọt, thuộc tỳ, phế kinh, có tác dụng bổ trung ích khí và nhuận phế, có thể được sử dụng để điều trị các bệnh như khí lực không đủ, chán ăn, khô miệng họng và các bệnh khác.
- Đường cát trắng
"Bản thảo cương mục" có ghi lại: "nhuận tâm phế táo nhiệt, trị ho tiêu đờm, giải rượu hòa trung, trợ tỳ khí, hoãn can khí".
Đường cát trắng khi sử dụng bên ngoài cũng có tác dụng mát mẻ, chẳng hạn như miệng lưỡi bị lở loét hoặc mưng mủ, đường trắng bôi bên ngoài có lợi cho việc chữa lành loại vết thương này.
- Đường nâu
Đường nâu có vị ngọt, tính ấm, thuộc tỳ, vị, can kinh, có tác dụng kiện tỳ ấm vị, làm dịu đau, thích hợp cho người đau dạ dày, tỳ vị hư hàn, đau bụng.
So với đường trắng, đường nâu tính ôn, đồng thời cũng có thể hoạt huyết hóa ứ, đây cũng là nguyên nhân khuyến cáo cho phụ nữ bị lạnh bụng, đau bụng thời kỳ kinh nguyệt uống nước đường nâu thay vì nước pha từ đường trắng.
- Đường vàng
Đường nâu trong quá trình nấu thì cho nhẹ lửa hơn, màu sắc sẽ nhạt hơn, đường sẽ có màu vàng nhạt hoặc màu xanh lục.
Tác dụng của đường vàng tương tự như đường nâu, chỉ là tính ấm của nó yếu hơn đường nâu.
- Đường đen
Hiệu quả của đường đen tương tự như đường nâu, nhưng tính ôn của nó mạnh hơn, vì vậy ngoài việc có các tác dụng của đường nâu, nó cũng có thể giúp làm ôn kinh thông lạc.
Hiện nay trên thị trường phổ biến là loại trà gừng đường đen, chính là dùng gừng già phối hợp với đường đen, để tăng cường tác dụng ôn thông của nó, thích hợp cho người đau ốm do hàn lạnh.
- Đường mạch nha
Đường mạch nha có vị ngọt tính ấm, thuộc tỳ, dạ dày, phế kinh, có tác dụng bổ tỳ ích khí, giảm đau nhanh, sinh tân nhuận khô, nhuận phế trừ ho.
Quảng cáo
Tỳ vị hư hàn thích hợp để ăn đường mạch nha. Uống nước pha với đường mạch nha cũng có tác dụng bổ tỳ ích khí, mỗi lần 15 – 20g, trước bữa ăn uống.
Tuy nhiên, ăn đường mạch nha cũng có những điều cấm kỵ, nói chung, thấp nhiệt nội uất, đầy hơi và nôn mửa, ho có đờm và trẻ em suy dinh dưỡng không thích hợp để ăn.
Tóm lại
Đường đen, đường nâu và đường vàng đều có tác dụng làm ấm tỳ vị, tính ôn giảm dần theo thứ tự.
Đường cát trắng và đường phèn có thể bình bổ tỳ vị, và đường phèn cũng có tác dụng bổ vị âm, thích hợp hơn cho người âm hư.
Đường mạch nha ôn trung bổ hư, nhưng kết cấu dính, không thích hợp với người tích thực (nóng trong người).