Thử nghiệm ngẫu nhiên DOREMI đăng trên New England Journal of Medicine vào tháng 8/2021 cho thấy không có sự khác biệt giữa dobutamine và milrinone trong điều trị sốc tim.
Các kết cục riêng lẻ cũng tương tự nhau ở hai nhóm. Phân tích dưới nhóm về tâm thất bị ảnh hưởng (phải so với trái hoặc cả hai thất) và mức độ nặng ban đầu của suy tim cũng không tìm thấy sự khác biệt. Các tác động có hại (gồm loạn nhịp) và thời gian nằm viện (trung vị 16 ngày) là tương tự nhau đối với hai nhóm.
Khoảng 40% người bệnh tử vong nội viện, không có người bệnh nào được ghép tim.
Các thử nghiệm đơn lẻ trước đó cho thấy milrinone có xu hướng giảm tỷ lệ tử vong hơn dobutamine ở người bệnh sốc tim [1]. Việc sử dụng dobutamine cũng gây lo ngại do nguy cơ loạn nhịp và tăng nhu cầu oxy cơ tim ở người bệnh nhịp tim nhanh và thiếu máu cơ tim. Kết quả nghiên cứu DOREMI phản ánh sự khác biệt giữa lý thuyết, nghiên cứu in vitro và thử nghiệm nhỏ lẻ khi so với thử nghiệm ngẫu nhiên mạnh xuất hiện sau đó.
Mặc dù vậy, milrinone thường được cho là có tác dụng giảm kháng lực mạch máu phổi và giảm hậu tải thất phải, do đó sẽ ưu thế hơn khi điều trị người bệnh suy thất phải đơn độc. Thử nghiệm chỉ gồm 16 người bệnh suy thất phải, do đó nghiên cứu có thể không đủ hiệu lực thống kê để trả lời vấn đề này.
Việc lựa chọn thuốc nào nên bao gồm biểu hiện lâm sàng, chi phí và kinh nghiệm sử dụng.
Link fulltext: https://www.nejm.org/doi/10.1056/NEJMoa2026845
Link correspondance: https://www.nejm.org/doi/full/10.1056/NEJMc2114890
Các kết cục riêng lẻ cũng tương tự nhau ở hai nhóm. Phân tích dưới nhóm về tâm thất bị ảnh hưởng (phải so với trái hoặc cả hai thất) và mức độ nặng ban đầu của suy tim cũng không tìm thấy sự khác biệt. Các tác động có hại (gồm loạn nhịp) và thời gian nằm viện (trung vị 16 ngày) là tương tự nhau đối với hai nhóm.
Khoảng 40% người bệnh tử vong nội viện, không có người bệnh nào được ghép tim.
Các thử nghiệm đơn lẻ trước đó cho thấy milrinone có xu hướng giảm tỷ lệ tử vong hơn dobutamine ở người bệnh sốc tim [1]. Việc sử dụng dobutamine cũng gây lo ngại do nguy cơ loạn nhịp và tăng nhu cầu oxy cơ tim ở người bệnh nhịp tim nhanh và thiếu máu cơ tim. Kết quả nghiên cứu DOREMI phản ánh sự khác biệt giữa lý thuyết, nghiên cứu in vitro và thử nghiệm nhỏ lẻ khi so với thử nghiệm ngẫu nhiên mạnh xuất hiện sau đó.
Mặc dù vậy, milrinone thường được cho là có tác dụng giảm kháng lực mạch máu phổi và giảm hậu tải thất phải, do đó sẽ ưu thế hơn khi điều trị người bệnh suy thất phải đơn độc. Thử nghiệm chỉ gồm 16 người bệnh suy thất phải, do đó nghiên cứu có thể không đủ hiệu lực thống kê để trả lời vấn đề này.
Việc lựa chọn thuốc nào nên bao gồm biểu hiện lâm sàng, chi phí và kinh nghiệm sử dụng.
Link fulltext: https://www.nejm.org/doi/10.1056/NEJMoa2026845
Link correspondance: https://www.nejm.org/doi/full/10.1056/NEJMc2114890