Một số món nhậu hay hay khắp 3 miền

dulichvietnam
7/9/2008 17:57Phản hồi: 23
Cá heo sông Hậu
Món cá heo chúng tôi đề cập trong bài viết này hoàn toàn không phải làm từ thịt của loài cá heo to lớn thường được huấn luyện biểu diễn nhào lộn. Đây là cá heo sông, giống cá chép, miệng kêu éc éc như tiếng heo, thường thấy ở vùng sông Hậu.

Cá heo sông Hậu là những con cá mình dẹp, bự nhất cỡ 3 ngón tay người lớn, dài chừng một tấc. Thân cá màu xanh đen, đuôi vi kỳ cá màu đỏ cam đẹp mắt. Khi lặn dưới nước, người ta nghe tiếng chúng kêu éc éc và khi bị bắt lên bờ chúng giẫy giụa cũng phát ra âm thanh giống tiếng heo kêu nên người dân lưu vực sông Hậu đặt tên chúng như vậy.

Muốn thưởng thức đặc sản mới này, tại các quán ăn ở Long Xuyên hay Châu Đốc có bán với giá khá bình dân. Cá heo ký: 180.000 đồng, lẩu cơm mẻ cá heo 60.000 đồng, cá heo kho thố 25.000 đồng, cá heo nướng 60.000 đồng, cá heo kho lạt 300.000 đồng.

Ngày xưa người ta xem cá heo sông là loài vô dụng, khi chài lưới được thường loại bỏ không thương tiếc. Nhưng mới đây, thật bất ngờ khi nó được xuất hiện trong thực đơn ở một số nhà hàng lớn tại thành phố Long Xuyên và thị xã Châu Đốc của tỉnh An Giang. Không biết người ta đánh bắt ra làm sao mà số lượng cá heo được chế biến thành thực phẩm ở địa phương này rất phong phú.

Cũng giống như cá kèo, cá chốt, cá linh - những loài cá bị người dân địa phương xưa kia coi thường - cá heo bây giờ cũng đã trở thành đặc sản. Cá heo được chế biến thành bốn món. Giản tiện nhất là cá heo nướng. Bếp than với cái vỉ nhôm được đặt trên mặt bàn. Những con cá heo tươi xanh tuần tự gắp để trên vỉ nhôm dưới sức nóng của than đước tỏa mùi đặc trưng mà bếp gas không có được. Trở mặt cá lần nữa, trong chốc lát màu sắc đẹp của cá trở thành màu vàng rộm tỏa mùi thơm nức. Chúng được gắp ra chấm vào chén cơm mẻ giằm ớt xanh, ăn kèm với rau thơm các loại, xà lách, dưa leo, khóm, chuối chát. Thịt cá ngọt được điểm xuyết vị cay của ớt thật khoái khẩu.

Cầu kỳ hơn một chút là cá heo kho thố. Vị cay của tiêu bột, vị ngọt của thịt cá, vị béo của mỡ heo, vị mặn, ngọt của muối, nước mắm, đường hòa nhau trong khẩu cái trở thành thứ hương vị tuyệt vời. Món này dùng để ăn cơm thì khó biết chừng nào no bụng! Lẩu cơm mẻ cá heo cũng là món vừa để ăn cơm vừa để lai rai khi có bạn bè. Món này ăn kèm với loại "rau sạch" là bông điên điển thật ăn ý làm sao. Vị cá ngọt, vị giòn nhẩn của bông điên điển hòa trong vị chua của cơm mẻ, tạo nên bữa ăn thú vị. Nhưng bông điên điển bóp nhẹ giấm lại hợp cá heo kho lạt với me non đầu mùa. Đây cũng vừa là món ăn cơm vừa là món nhậu rất "bắt mồi" khiến khách phương xa ngẩn ngơ lòng dạ! Món nào cũng đều khiến thực khách ưng ý với xương và đầu cá giòn mềm trong răng, vị đắng nhẹ của mật và ruột cá heo lan lan mặt lưỡi vì khi chế biến thành thức ăn người ta chỉ rửa sạch cá là xong, không moi bỏ ruột.
''Pa Pỉnh Tộp'' - Món ăn cổ truyền của dân tộc Thái
Từ ngàn xưa, người Thái đã định cư ở những thung lũng lớn, màu mỡ ven các con sông, con suối, nơi có những cánh đồng lúa phì nhiêu nổi tiếng như Mường Tấc, Mường Thành, Mường Lò...
Hệ sinh thái thung lũng đã tạo nên định hướng sản xuất truyền thống của dân tộc Thái là trồng trọt lúa và đánh bắt, nuôi cá để kiếm kế sinh nhai.

Việc chế biến các món ăn hợp khẩu vị không những trở thành nhu cầu hàng ngày không thể thiếu được đối với đồng bào Thái, mà còn là một tiêu chuẩn để nhận xét, đánh giá con người, nhất là đối với thanh niên nam nữ mới đi làm dâu, làm rể. Cơm nếp thơm, ăn cùng với các món ăn được chế biến từ thịt, cá và các loại rau rừng là những món ăn ngon đặc sắc của người Thái thể hiện sự hoà quyện giữa thiên nhiên với lòng kiên trì, nhẫn nại, tính sáng tạo tuyệt vời của cư dân Thái. Về hình thức, các món ăn Thái nhìn chung không cầu kỳ kiểu cách nhưng khi đã được thưởng thức thì không dễ quên được, trong đó đặc biệt là món '' Pa Pỉnh Tộp" (tức là cá nướng úp) đậm đà bản sắc dân tộc.

Tục ngữ Thái có câu: '' Cáy măn mọk má ha, Báu to pa pỉnh tộp ma sú'' nghĩa là: '' Gà tơ tần đem đến, không bằng cá Pỉnh Tộp đem cho''. Người ta đánh giá món cá nướng này sang trọng không chỉ bởi giá trị ẩm thực của nó mà còn bởi sự ước lượng chuẩn xác và bàn tay kehó lép của người làm ra nó. Từ xa xưa, cá và các loại thuỷ sản khác đã là nguồn thực phẩm quan trọng trong bữa ăn hàng ngày của người Thái. Khi đứa con mới đẻ người mẹ lấy đôi đũa mới gắp miếng cá nướng chấm vào miệng con trẻ, làm như vậy có nghĩa là bé sinh ra hưởng miếng cơm cá mà lớn khôn. Đối với đồng bào Thái, ''Cơm trắng, miếng cá bạc'' là biểu tượng cho sự no đủ, hạnh phúc.

Để làm được món '' Pa Pỉnh Tộp'', người ta chọn loại cá chép khoảng 0,5 kg trở lên, béo và còn tươi sống. Trước khi mổ phải cạo vảy để gia vị ướp ngấm đều vào cá, không mổ cá đằng bụng mà phải mổ đằng dọc sống lưng để khi gấp úp, con cá mềm mại dễ gấp hơn và để phần gia vị nhồi trong bụng cá khi tiếp xúc với than hồng sẽ toả mùi thơm ngấm vào thịt cá. Dao mổ cá phải là dao sắc lẹm, khía thẳng, dứt khoát, không khía nhiều lần gây nát cá. Sau khi bỏ mật cá bắt đầu ướp nhồi gia vị.

Các món ăn Thái mang hương vị đặc trưng khó quên cũng là nhờ sự pha trộn khéo léo và hợp lý giữa các loại gia vị cay, chua, đắng, mặn, ngọt như ớt, tỏi, gừng, sả, riềng, mắc khén và các loại rau thơm, trong đó đặc biệt là ớt và tỏi là hai thứ không thể thiếu trong bữa ăn của người Thái. Nói về các gia vị của người Thái để chế biến món cá Pỉnh Tộp cũng như các món đặc sản khác thì vô cùng đa dạng phong phú. Pa Pỉnh Tộp phải ướp bằng ớt bột khô thì khi nướng cá mới thơm ngon và ướp đậm muối hơn một chút so với cá đem rán. Sau khi tẩm ướp con cá, để khoảng 5-10 phút, người ta nhồi vào bụng cá những loại rau thơm đã được thái nhỏ như: gừng, tỏi, sả, hành, rau thơm rừng (Hom mu chưn) và mầm măng của cây sa nhân. Gấp úp đôi con cá lại, xoa một lớp bột riềng và thính gạo ra ngoài vỏ cá rồi kẹp vào gắp nướng. Que gắp nướng (Híp Pỉnh) phải bằng cây tre bương dày, tươi càng tốt, chẻ thành đôi hoặc ba, bốn chạc để kẹp con cá cho chắc chắn. Sau đó phải nướng cá trên cây củi gỗ núi đá. Nếu nướng trên than cây tre và các loại cây gỗ tạp thì cá không chín vàng đều và không thơm ngon. Người ngồi nướng cá cần phải kiên trì hơ cho con cá chín dần, chín đều, không nóng vội dí sát cá vào bếp lửa cá sẽ cháy sém bên ngoài nhưng chưa đủ độ chín thơm bên trong. Khi gỡ cá ra đĩa, người Thái có sáng kiến dùng sợi chỉ vuốt dọc theo chiều gắp, con cá được gỡ ra vẫn nguyên vẹn, không vỡ nát.

Khách quý tới nhà, sau khi đôi lời chia vui, cảm ơn quý khách chủ nhà sẽ chia phần '' Pa Pỉnh Tộp'' cho khách và mọi người với ý niệm: đây là món ăn quý trọng, mến khách, hẹn gặp lại không bao giờ quên! Thưởng thức miếng cá nướng vàng rộm, thơm lừng với cơm nếp xôi dẻo ta mới thấy hết cái vị ngọt béo của cá, vị cay của quả ớt đầu sàn nhà mẹ, qủa Mắc khén ven bản, màu xanh của hành, của rau thơm lẫn màu đỏ của ớt, màu vàng của cá nướng - tất cả màu sắc của bức tranh thiên nhiên ấy đã đi vào bữa ăn cụ thể của đồng bào Thái giản dị mà ngẫu nhiên. Cơm xôi ăn với '' Pa Pỉnh Tộp'' của người Thái cũng được ví như cơm tám nấu niêu đất ăn với cá bống kho của người miền xuôi vậy.

Quảng cáo



Vừa là món ăn giành đãi khách quý, nhưng cá Pỉnh Tộp cũng còn là món ăn đời thường, rất thuận tiện cho việc gói cơm đi làm nương rẫy, đồng áng. Cơm xôi ăn với cá nướng, chấm muối ớt giã (chẳm chéo), cùng với can nước mát đã đủ sức làm ấm lòng những người cày cuốc trên nương, ngoài ruộng.

Có thể nói, bữa ăn dân tộc Thái là tấm gương trung thực phản chiếu môi trường tự nhiên, cách thức và trình độ chinh phục môi trường đẻ tạo ra nguồn thức ăn đặc sắc, hợp khẩu vị. Món '' Pa Pỉnh Tộp'' của người Thái là món ăn đã trở thành nổi tiếng, là nhu cầu đòi hỏi đối với du khách khi tới thăm bản của người Thái.
Huyền thoại gia vị miền Tây Bắc
Điều kiện trên núi cao, cùng với cuộc sống cơ bản dựa vào núi rừng khiến mỗi dân tộc đều có phương thức sống riêng biệt, từ ngôn ngữ, phong tục tập quán..., cho tới cách chế biến món ăn.
Một dải núi rừng hoang sơ bí hiểm, khởi đầu từ mạn Mộc Châu, Yên Châu, nối tới Thuận Châu, rồi trải miên man tới những địa danh xa xôi với người miền xuôi như Nghĩa Lộ, Sơn La, Điện Biên...là nơi cư trú ngàn đời của dân tộc người Thái, Hà Nhì, La Hủ, Mông...Điều kiện cư trú trên núi cao cách trở cùng với cuộc sống cơ bản dựa vào núi rừng đã khiến mỗi dân tộc đều có phương thức sinh sống riêng biệt, từ ngôn ngữ, phong tục tập quán, hoa văn thổ cẩm, kỹ thuật trồng trọt cho tới cách chế biến món ăn. Lẽ dĩ nhiên đa số các tộc người vùng cao đều có cách ăn uống cơ bản giống nhau, song nổi bật là những món gia vị kỳ lạ, những điểm xuyết vào thức ăn đôi khi lại thành dấu ấn mạnh mẽ trong nền văn hóa của từng vùng.
Nhắc tới gia vị miền Tây Bắc, phải nói tới một loại gia vị đã đi vào huyền thoại, sau này còn chinh phục cả người kẻ chợ.
Mắc khén - loại gia vị dường như chỉ người Thái đen hay chế biến cho những bữa ăn của mình, tới nay cũng không rõ dịch ra là gì. Theo tiếng Thái đen hay chế biến cho những bữa ăn của mình, tới nay cũng không rõ chính xác dịch ra là gì. Theo tiếng Thái, “mắc” có nghĩa là quả. Nhưng còn “khén” thì không hề có chữ gì đồng nghĩa ngay cả trong ngôn ngữ bản địa. Bởi vậy, mắc khén sẽ mãi mãi là một tên riêng, tự nhiên tồn tại như chính bản thân núi rừng hoang dã, bí hiểm mà cũng quá đỗi quen thuộc với con người. Bản thân mắc khén là một loại cây dại thuộc họ hồi, có tinh dầu, khi đơm trái sẽ kết thành những chùm quả nhỏ li ti, tỏa hương thơm dịu. Người chốn sơn lâm chỉ việc lên sườn núi, tìm những cành mắc khén chín về phơi khô rồi xoa cho rời cành. Hầu như không có bữa ăn nào quan trọng của người Thái lại thiếu được mắc khén, hệt như một dạng muối vừng với người Kinh vậy. Song để chế biến thành gia vị cũng phải kỳ công. Rang nóng trên chảo, mắc khén được giã thành bột mịn, nhưng gia vị thơm phức chuyên dùng để ăn với xôi nếp nương thơm ngon chắc dẻo này còn phải qua nhiều công đoạn nữa. Ớt khô bỏ hạt nướng giòn, muối rang khô, tất cả cùng giã thành bột mịn và trộn đều cùng bột mắc khén. Tới lúc đó thì một loại gia vị hoàn toàn quen thuộc đã thành hình. Đó là chéo một thứ bột thành phẩm tỏa mùi thơm hăng hắc, dịu như vị ô mai, nhưng cũng phảng phất chất núi rừng thơm cay nồng nàn như hương hồi, hương quế. Chéo thông dụng nhất dùng để chấm xôi, những chõ xôi nếp nương mà nếu thu hoạch từ cánh đồng Tú Lệ dưới chân đèo Khâu Phạ chia đôi Nghĩa Lộ- Than Uyên thì chắc chắn không có hương vị nào sánh bằng. “Nếp Tú Lệ - Tẻ Mường Lò – Xòe Kinh Bạc”.
Thời xa xưa, khi những cánh rừng đại ngàn còn che chở bản làng, khi thú rừng rong chơi và những người thợ săn vẫn đêm đêm lặn lội theo dấu con mồi, thì chéo nhất quyết không thể thiếu trong túi đồ thợ săn. Một bộ phận người Thái đen cho tới nay vẫn tin con thú sẽ được Thần Rừng cho sống lại sau khi chết, bởi vậy mỗi khi bắn được con mồi, họ không bao giờ lấy bộ lòng. Xả thịt con mồi ngay giữa rừng, thợ săn sẽ đặt lại toàn bộ tim, gan, ruột...của nó lên tảng đá và khấn khứa, đại ý: “Thưa Thần Rừng, hôm nay tôi mượn một con vật của Thần. Tôi đã để lại bộ lòng, xin Thần Rừng cho nó cái vỏ khác để nó có quyền chạy nhảy...”. Bài khấn xong là lúc những người đi săn có quyền đánh chén. Và tục lệ bắt buộc phải ăn hết con mồi tại chỗ đã khiến việc sử dụng chéo xát vào bên trong, bên ngoài con vật trước khi nướng trở thành thông dụng.
Bột chéo giúp thịt thú rừng trở lên ngon đặc biệt. Cũng không chỉ dùng cho các loài thú săn trên rừng, chéo còn được người Thái đen sử dụng trong cách nướng cá “pa pẻng toh” có nghĩa là “cá nướng gập” đầy quyến rũ. Cá mang về nhà rửa sạch ruột, xát chéo cả bên trong và bên ngoài, sau đó banh cá ra gập ngang thân cho đầu gặp đuôi, kẹp que nướng trên lửa. Người chưa ăn bao giờ cũng phát thèm khi tưởng tượng, huống gì khách đã ăn quen. Kiểu gập cá độc đáo này giúp cá nướng chín đều, bản thân nước bên trong được giữ lâu hơn và khiến thịt cá không bị cháy. Hương vị của chéo tỏa ra thơm phức, vị dịu của mắc khén, vị cay nồng nàn của ớt, vị mặn mòi của muối.
Cũng trên vùng Tây Bắc này, khách miền xuôi luôn luôn được người dân bản địa giới thiệu đầy tự hào về nậm pịa, thứ đồ chấm phổ biến mang mầu sắc hoang sơ vào bậc nhất núi rừng. Cũng là cách lấy phần ruột non trong con vật như cách lấy phèo lợn theo phong tục người Kinh, nhưng nậm pịa còn ly kỳ hơn bởi khâu chế biến. Cũng khá thú vị nếu biết rằng, nậm pịa chỉ được lấy ở những con vật ăn cỏ như trâu, bò, dê và các loài ăn cỏ khác ở rừng, trong đó dê được đánh giá cao nhất chính bởi khả năng dê có thể hồn nhiên chén rất nhiều loài lá có độc mà các con vật khác tránh xa. Dường như năng lực tự nhiên đã khiến dê tạo nên những chất có khả năng kháng độc trong cơ thể, từ đó nậm pịa dê có tính năng tiêu độc, giúp cơ thể con người tiêu hóa tốt hơn.

Quảng cáo


Nếu người miền xuôi chủ yếu lấy phèo lợn để luộc lên ăn như món thời trân thượng hạng, thì nậm pịa lại đòi hỏi công phu hơn. Phần ruột non ngay sau khi được lấy ra phải dùng lạt thắt chặt hai đầu ngăn cách với ruột già và dạ dày, để chất nhũ tương trong ruột non không pha tạp. Chất dịch nhũ tương trong ruột non là phần tinh túy nhất, là thức ăn đã được chuyển hóa chuẩn bị ngấm qua mạch máu nuôi dưỡng cơ thể, đồng thời mang vị đắng của mật, vị ngọt của protein. Phần ruột non đó sau đó sẽ được cắt khúc ngắn, trộn cùng lá rau thơm, bột mắc khén, rau mùi tầu, tỏi, ớt...tất cả đều băm nhỏ rồi đun sôi, cho tới khi trở thành sền sệt thì thành món nậm pịa trứ danh. Theo phong tục, người Thái mỗi khi mổ trâu, bò, dê...đều thiên về món nướng và phần thịt khi đặt trên mâm sẽ hơi tái để giữ vị ngọt tự nhiên. Nậm pịa chuyên dùng như thứ đồ chấm thịt nướng sẽ khiến miếng thịt trở nên thơn ngon đặc biệt, nổi bật hương vị của đồ nướng hòa quyện các vị cay, mặn, ngọt, thơm...Ngày nay nậm pịa đúng kiểu cách xưa thì e rằng hơi khó, khó bởi chính từng công đoạn tỉ mẩn, cũng khó bởi không phải lúc nào chủ nhân cũng hào phóng chiêu đãi khách nậm pịa đặc không pha. Song nếu có khi nào được thưởng thức nậm pịa đặc chính tông kiểu dân tộc Thái, chắc hẳn sức quyến rũ miền núi rừng sẽ khiến nhiều bước chân trở nên quyến luyến hơn.
Bao bọc trong làn sương gió, xứ sở Tây Bắc mỏng manh cánh hoa Ban lúc nào cũng có những loại gia vị độc đáo, như thế đấy, những gia vị góp phần tạo nên huyền thoại chốn sơn lâm.

Gỏi rết, món sơn hào miền bảy núi
Phần đông cư dân từng ăn gỏi gà, gỏi vịt, chớ ít ai được thưởng thức gỏi thịt rít, món ăn dân dã, khá lạ miệng do con người đi khai phá vùng đất mới để định cư buổi đầu chế biến cho thích nghi với hoàn cảnh môi trường núi rừng hoang dã để sống.
Thực tế, ai đã đọc truyện võ hiệp của Kim Dung, nhà văn lớn Trung Quốc từng mô tả nhân vật Hồng Thất Công, vị trưởng lão trong đội ngũ Cái bang đã bắt rít luộc, xé phay trộn gỏi “nhậu rượu” phà phà. Dân Trung Quốc nổi tiếng khắp hoàn cầu về nghệ thuật chế biến ẩm thực ngon hết chỗ chê, đến nỗi tục ngữ dân gian từng ca ngợi “ ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, cưới vợ Nhật” là 3 đặc điểm thượng sách; chẳng hóa ra cũng từng ăn thịt rít trộn gỏi,chớ lạ gì xứ sở của ta đâu!
Tỉnh An giang, đặc biệt có dãy Thất Sơn, gồm nhiều ngọn núi, nơi ẩn náu và sinh trưởng của nhiều loài bò sát, nhất là loại rít sinh sản nhanh và dồi dào ở núi Dài, núi Bà Đội Om, núi Két, núi Côtô . . . dẫn dài đến núi Sập, núi Ba Thê , núi Chóc, núi Chọ… tương truyền rằng, thuở xa xăm, vùng Thất Sơn còn hoang vu, cây cỏ rậm rịt, thú dữ tha hồ hoành hành. Còn bọn du thủ du thực cũng lợi dụng địa thế núi non hiểm trở ẩn núp chiêu la dụ đảng làm điều phi pháp. Vào một đêm, có bọn cướp núi vào bắt bò của cư dân trong xóm dắt về sơn trại, giấu trước cửa hang chờ trời sáng để bán. Nào ngờ bầy rít to tướng cỡ con trăn, bò đến quấn chặt thân bò, rít vận dụng cả chục đôi chân, xé tét da bò để ăn thịt. Rạng sáng hôm sau, bò chỉ còn trơ lại nắm xương trắng. Nhân dân mất bò lùng sục, truy tìm, loan tin khớp nơi... Qua đó, không ai bén mãng đến vùng này coi như vùng “cấm địa” nên núi dài còn có tên là núi Cấm. Từ đó thịt rít đã trở thành món đặc sản dành chiêu đãi khách sang trọng. Muốn bẫy rít: người ta sắm lồng bằng lưới giống y lồng bẫy chuột, nhưng lớn hơn gấp nhiều lần, năm phía cửa lồng kết liến nhau chỉ chừa cửa miệng có nắp đậy căng lò xo, bên trên làm chốt gài. Họ dùng con mồi thích hợp để bẫy rít là thịt gà sống, chặt từng miếng cỡ ngón chân cái gài trên tấm vĩ khớp với cái chốt gài. Rồi chọn chỗ bụi rậm kín đáo hoặc hốc đá để đặt bẫy. Rít bắt mùi thịt gà tìm đến chui vào giương càng ra kẹp mồi, cửa lồng xập xuống nhốt rít vào lồng. Nhiều con to cỡ con lươn, hay con rắn hổ hành. Mỗi bữa đặt vài chục cái bẫy, ngày nào hên kiếm được mươi con rít... Đem về, bắc nước sôi hé miệng lồng trút rít vào. Màu nước sôi đang trong, rít tiết chất độc từ từ thành màu đen sẩm. Đợi cho nước sôi vài dạo khoảng mươi, mười lăm phút vớt rít ra để nguội, chặt bỏ đầu, đuôi, tuốt luôn lớp da giòn cứng ra, để lộ các thớ thịt phồng lên trắng phau từng khoảng tựa hồ thịt tôm luộc. Dùng mũi dao nhọn rạch bụng vứt bỏ bộ lòng xé thịt ra từng sớ hoặc chặt khúc vừa miếng ăn. Xong bẻ bắp chuối hột xắt ghém làm gỏi, nếu không có bắp chuối thay bằng đu đủ mỏ vịt hoặc ngó sen, bắp cải, dưa leo, cà rốt xắt nhuyễn trộn chung vào. Để cho ráo nước cho hành tiêu ngâm giấm, đường, muối, bột ngọt, nước mắm, ớt nêm vừa ăn, rắc rau răm trộn đều, rồi đem thịt, rít trải lên trên mặt đĩa gỏi, thêm một ít đậu phộng giòn giã dập tăng độ béo và thơm. Lúc ăn, chấm với nước mắm hòn với tỏi, ớt, chanh mới thấy đậm đà hương vị. Mời các bạn thử ăn một lần cho biết mùi vị sâu lắng của đất rừng phương Nam. Tuy là món ăn sơn hào dân dã của miền Thất Sơn, nhưng hiện nay rất quí hiếm. Chắc gì nhà hàng sang trọng đã có ?!
Các bạn có thể tham khảo thêm về văn hóa ẩm thực Việt Nam tại trang : http://dulichvietnam.asia hoặc http://dulichnonnuoc.com
23 bình luận
Chia sẻ

Xu hướng

Tình hình là con gì chúng ta cũng ăn được hết. Chưa ăn được là do chưa biết chế biến nó thành món gì thôi. Hê hê.
Nhìn bài của bác toàn là chữ, đọc 1 hồi là em chóng mặt luôn. Hichic
Khổ thế đấy, viết ít chữ lại có người nghĩ là sờ pam thì khổ, mà tách ra làm 4 bài thì sợ lâu, hihi...............
Thêm 2 món nữa các bác nhé

Trứng cá sấu


Nhà văn Vũ Bằng khi viết về món ăn Nam bộ, đã nhận xét, món ăn miền Nam hào sảng, phong phú mà kỳ lạ... Trong đó, thì món ăn từ cá sấu vừa lạ kỳ, hấp dẫn với những câu truyện truyền kỳ về nó.

Món ăn từ cá sấu lạ, nhưng những năm sau này, người thành phố đã có dịp thưởng thức ít nhiều những món ăn từ thịt cá sấu. Nhưng theo ông Tôn Thất Hưng, Giám đốc công ty cá sấu Hoa Cà thì trứng cá sấu lại lạ hơn trong những món ăn từ cá sấu.

Trứng cá sấu lớn cỡ trứng ngỗng nhưng dài, thon và có phần nhỉnh hơn đôi chút, vỏ trứng màu trắng sáng. Trứng khi đập vỏ, bên trong lòng trắng cũng giống như lòng trắng trứng vịt, nhưng lòng đỏ lại có màu ngà chứ không đỏ như trứng gia cầm.

Trứng cá sấu khá tanh, có lẽ do mùi đặc trưng của giống cá sấu. Người ta dùng trứng đánh lên với thịt cá sấu, băm nhuyễn cùng nấm mèo, bún tàu và các gia vị, nhất là tiêu xanh, hấp lên thành món chả ổ hấp. Chả làm từ trứng cá sấu có mùi vị khá đặc biệt, gắp miếng chả, chấm nước mắm ăn kèm cùng các loại rau thơm. Thoang thoảng mùi đặc trưng của trứng hoà cùng mùi của các loại rau thơm, mùi nồng nàn của tiêu xanh, vị chua ngọt của nước mắm làm miếng chả trở nên đầy đủ hương vị hơn.

Còn món chả trứng cá sấu bao lá mướp, người ta cũng dùng gan heo, thịt cá sấu băm trộn chung với trứng, cho bún tàu, nấm mèo, gia vị… và không thể thiếu đậu phộng rang để tăng độ béo, bùi cho chả. Tất cả được gói trong lá mướp cho vào chén hấp lên. Lớp lá mướp bọc bên ngoài làm mùi chả dịu thơm hương vị của đồng quê Nam bộ. Bẻ miếng bánh tráng mè nướng xúc chả, vị bùi, thơm lẫn vị béo của trứng cá sấu càng tăng thêm sự lạ miệng của món ăn.

Còn trứng cá sấu luộc chấm muối tiêu và rau răm hơi ít có vì trứng cá sấu không nhiều lắm. Mùi vị của kiểu trứng luộc này khá tanh nên hơi kén người thưởng thức.

Trứng cá sấu, một món ăn lạ, mang phong vị của món ăn thời mở cõi đầy gian nan nhưng không kém phần độc đáo, hào sảng.


Mắm ruột cá ngừ Quy Nhơn


Mắm có vị đậm, thơm, ngọt vừa giống vừa khác với hương vị của mắm cái chính hiệu, chan, ăn với cơm nóng, bún, bánh hỏi, bánh cuốn rất ngon. Đây là đặc sản của vùng Quy Nhơn.

Có loài cá, người ta không chỉ ăn được phần thịt mà còn ăn được cả phần ruột, nội tạng bên trong của nó. Ăn ngon nữa là đằng khác. Ruột con cá ngừ là một minh chứng. Món luộc hay nấu ruột cá ngừ, chắc có lẽ rất nhiều người đã biết, quen làm và hay được thưởng thức ở tại nhà hoặc nơi quán xá, nhà hàng. Ruột cá ngừ mà làm mắm để ăn thì chắc chắn không phải người nào cũng đã ăn. Đó chính là sản phẩm độc đáo của các bà, các mẹ, các chị thuộc thành phố biển Quy Nhơn.

Cách làm mắm ruột cá ngừ cũng khá đơn giản. Quan trọng là người làm mắm phải mua, chọn cá cho thật tươi. Cá càng tươi, càng to thì mắm càng ngon, càng lắng đọng nhiều dư vị. Đương nhiên, khối lượng ruột cá mỗi lần dầm mắm chí ít cũng phải được 1 kg trở lên.

Dùng dao cắt khéo ở phần bụng lôi trọn vẹn phần nội tạng bên trong ra, gạt bỏ bao tử, gan, chỉ lấy nguyên ruột, không cho vấy bẩn, không cần rửa (vì ruột cá ngừ tuyệt nhiên không có chất bẩn, chất độc), rồi bỏ từng cái ruột vào thẩu nhựa hoặc thủy tinh, đậy nắp thật kín, cùng với muối sống, muối hột theo tỷ lệ hai ruột - một muối là được.

Cỡ chừng 15 ngày sau, khi chất muối mặn đã thâm thấm vào từng ruột cá thì trong thẩu bắt đầu xuất hiện một lượng nước, có màu đục sẫm, đấy là tinh chất của ruột cá tiết ra, lượng nước này tăng dần lên ở giai đoạn tiếp theo. Sau ba tháng, kể từ ngày muối mắm là thời gian thích hợp, lý tưởng cho việc mở nắp, khui ra ăn. Múc ra bát, nước mắm ruột cá ngừ đằng đặc, sền sệt như nước mắm cái, như nước sốt hảo hạng của vùng duyên hải miền trung ấy (còn phần xác ruột cá thì bỏ đi). Cần chút gia vị như ớt, tỏi, ít quả cà pháo nhỏ và vài miếng thơm (dứa) xắt mỏng, nhỏ thả vào tô điểm cho bát mắm ruột cá ngừ thêm phần hương vị ngọt ngào, hấp dẫn và sang trọng.

Nước mắm này có vị đậm, thơm, ngọt vừa giống vừa khác với hương vị của mắm cái chính hiệu. Dùng chan, ăn với cơm nóng, bún, bánh hỏi, bánh cuốn thì ngon miệng phải biết. Mắm ruột cá ngừ có nét giống như những món muối chua là không thể giữ được lâu phải ăn hết, không cho phép để thừa.
Các bạn có thể tham khảo thêm về văn hóa ẩm thực Việt Nam tại trang : http://dulichvietnam.asia hoặc http://dulichnonnuoc.com
"Gỏi Rết"---->nghe thôi em đã sợ rồi,con này cũng ăn được sao?
Có hình thì hấp dẫn hơn ạ.

Nhớ mùi thịt chuột nhung quay lu quá 😁
Thêm vài món nữa vậy, chuột thì để bài sau nhé, hihi!!
Món thịt dơi của người Thái Chiềng Khoi, Sơn La

Chiêng Khoi là vùng của người Thái cư trú. Tại bản Hiêm, xã Chiềng Khoi, huyện Yên Châu, có một hang đá rất lớn gọi là Hang Dơi. Đây là một hang rộng lớn, có nhiều ngách, đủ nước và ánh sáng cho một số sinh vật phát triển, đặc biệt là loài dơi.
Từ xưa, người Thái đã bắt dơi về chế biến các món ăn. Đây là món được coi là quý hiếm, chỉ dùng để biếu bố mẹ. Theo dân gian Thái, ăn thịt dơi trẻ con chóng lớn, thông minh, nhanh nhẹn, bay cao bằng cách cho ăn thịt dơi. Người già ăn thịt dơi khoẻ mạnh, kéo dài tuổi thọ. Một số người tin rằng, nếu tuổi trẻ được ăn thịt dơi, cuộc sống vợ chồng khoẻ hơn bình thường. Vì vậy, thịt dơi được nhiều người ưa chuộng. Người Thái Chiềng Khoi thường chế biến thịt dơi bằng mấy cách như sau:
Hăm Pịch Kia: Dơi làm sạch, chặt cánh để riêng, thịt băm nhỏ cho gia vị (củ xả, lá lốt, ớt, mắc khén, rau húng...). Sau khi thịt dơi và gia vị đã nhỏ tươi, người ta cho một chút muối rồi dùng cánh nó gói thịt lại như gói bánh đa nem. Do cánh dơi được gói kín, gia vị và thịt dơi không bị bay hơi, nên có vị thơm rát đặc biệt khi rán lên.
Lám Kia: Sau khi dơi đã làm sạch, người ta để cả con dùng gia vị (xả, mắc khén) nhét vào bụng rồi ấn vào ống tre gai, cho một vài hột sa nhân hoặc một vài vị thuốc dân gian, đổ một ít nước, nút bằng lá dong. Hầm 3-4 giờ, cạn nước laị đổ thêm. Nước trong ống dành cho người già và trẻ em dùng. Đây là một món có giá trị dinh dưỡng được dân tộc Thái rất ưa thích.


Về Bình Thuận thưởng thức Ốc Vú Nàng
Biển miền Trung có nhiều bào nhuyễn thể và giang sơn của chúng là các hải đảo ngoài xa khơi. Chúng bám sống vào các gành đá quanh đảo và hàng năm, ngư dân, đánh bắt cung cấp cho các nhà hàng và tiệm ăn một số lượng khá lớn. Trong các loài nhuyễn thể nổi tiếng nhất, có loại ốc mang tên vú nàng.
Tên mới nghe thật lạ lẫm làm sao! Loại ốc này sinh sống nhiều ở Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Cù lao Ré (Quảng Ngãi), đảo Lao Câu và đảo Phú Quý (Bình Thuận)...
Ốc vú nàng có hình dáng giống đôi gò bồng đảo của các cô gái dậy thì căng tròn đầy sức sống. Hơn nữa, ốc vú nàng lớn bằng kích cỡ "vú nàng thật", được bao bọc bên ngoài lớp vỏ bằng xà cừ cứng chắc. Nếu dùng cát xát vào vỏ thì toàn thân ốc ửng lên một mầu hồng tuyệt đẹp và gợi cảm. Vú nàng thường to cỡ ba ngón tay, vỏ ngoài màu đen xám, mặt trong lấp lánh xà cừ. Đây là loại ốc sống bám vào các gộp đá ven bờ biển.
Ốc vú nàng có quanh năm nhưng chỉ xuất hiện nhiều vào những ngày trăng tròn, sau đó chúng lặn mất dần để rồi tái xuất hiện vào đầu mùa trăng theo một chu kỳ nhất định.
Người bắt ốc phải chịu khó ngâm mình dưới nước bơi vào các hang, dùng đèn soi rọi vào tận kẽ đá tách từng con ốc đang bám chặt vào thành đá bằng lớp da bụng mềm mại của nó.
Ốc đem về rửa sơ, xếp vào xoong nước đặt lên bếp lò luộc chín. Thỉnh thoảng dùng đũa trở ốc để cho thịt chín đều, sau đó vớt ra để nguội. Chỉ cần lách mũi dao nhỏ nạy nhẹ là ta đã lấy được một khối thịt ốc bung ra khỏi vỏ, đưa vào xoong nước luộc rửa sạch, cắt bỏ hết những chỗ nhớt mầu xanh xanh có vị đắng.
Thịt ốc thái mỏng (theo chiều dọc) đem trộn với da heo hay thịt ba chỉ thái nhỏ, dưa chuột, rau răm, rau húng, đậu phụng rang giã dập, chanh tươi, ớt chín, nước mắm ngon sẽ có món gỏi ốc ngon tuyệt!
Gỏi ốc ăn với bánh tráng (bánh đa) nướng, chấm thêm nước mắm gừng ăn mãi không chán. Hương vị gỏi ốc thật đậm đà và khoái khẩu làm sao! Mùi thơm của rau quyện với vị cay nồng của ớt, vị ngọt ngọt của ốc cứ ngấm dần, ngấm dần...
Được thưởng thức món gỏi ốc vú nàng chắc chắn các bạn sẽ nhớ mãi.
ỐC VÚ NÀNG

cái tên thật là đẹp 😃

cái tên nói lên tất cả 😃

món ăn đậm chất xxx 😁
uhm, thế mới hay, nghe đã thấy ngon và thơm rồi, nhớ mãi, ăn cả đời không hết nhớ, không hao hụt. HIHI
Mọc vịt Lục Yên
Vịt bầu Lục Yên thịt chắc, thơm ngon, nhân dân thường làm các món ăn như vịt luộc, quay, nướng, hấp cách thủy và làm mọc. Theo thói quen ở địa phương đã mổ vịt là không thể thiếu 2 món là bát tiết canh và đĩa mọc. Để làm mọc vịt ngon, người nội trợ phải khéo lựa chọn vịt và không thể thiếu các gia vị chủ yếu là hạt dổi, rau răm, củ sả và thính (bột gạo rang). Vịt để làm mọc ngon nhất là vịt bầu béo, không non quá hay già quá, tốt nhất là mua loại vịt cái khoảng 7 - 8 tháng tuổi, trọng lượng mỗi con 1,8 - 2,5 kg. Nếu mua được vịt nuôi ở các xã vùng cao như Khai Trung, Lâm Thượng, Khánh Thiện... thì càng ngon.
Khi làm mọc vịt, công việc đầu tiên là chuẩn bị gia vị, gạo làm thính nhặt sạch thóc, vo qua cho sạch rồi tãi mỏng, hong cho khô, trộn 1/3 gạo nếp với 2/3 gạo tẻ, rang chín vàng, nghiền nhỏ rây mịn. Hạt dổi nướng chín giã nhỏ, rau răm và củ sả giã nhuyễn, thêm chút nước vào bóp kỹ, vắt lấy nước, lọc bỏ bã, các loại gia vị như muối, nước mắm, mì chính, bột hạt dổi đều trộn vào nước gia vị này.
Vịt sau khi mổ rửa sạch để ráo nước, người ta lọc lấy phần thịt băm hoặc thái chỉ thật nhỏ, trộn đều thịt vịt với thính và gia vị, số lượng bột thính có thể nhiều hay ít tùy ý nhưng thông thường người ta trộn 2 phần thính với 3 phần thịt, nước gia vị vừa đủ để khi trộn xong nguyên liệu dẻo như bánh dày là đạt yêu cầu.
Lá dong rửa sạch, lau khô, dùng gói mọc thành từng gói nhỏ (mỗi gói đặt vừa 1 đĩa) cho vào chõ xôi trong khoảng 3 giờ đồng hồ là được. Nước chấm mọc dùng loại nước mắm ngon, pha thêm chút đường, mì chính, hạt dổi, rau răm giã nhuyễn và nước cốt chanh, tùy theo khẩu vị người ăn có thể pha thêm tỏi và ớt tươi thái nhỏ, bỏ hạt.
Cũng còn có cách làm mọc đơn giản hơn tuy nhiên ăn cũng kém ngon hơn. Thịt vịt là món ăn dân dã của nhân dân Lục Yên, trong các món ăn chế biến từ vịt thì mọc vịt là món ăn lạ miệng với khách. Tuy chưa trở thành thương hiệu nhưng món mọc vịt Lục Yên đã thường xuyên có trong các bữa tiệc tiếp khách gần xa.
Ngồi khoanh chân trên chiếu phía cửa sổ nhà sàn, thoang thoảng ngửi mùi thơm hoa rừng trong gió bình nguyên mát dịu, nhâm nhi chén rượu ngô được ủ bằng men lá cây, ăn món mọc vịt như một loại “bánh trong làng” vừa lạ miệng vừa ngon, chắc chắn sẽ là một trong những kỷ niệm đáng nhớ khi đến vùng đất Ngọc Lục Yên


Rau ranh, ốc đá
Có dịp về huyện miền núi Trà Bồng (Quảng Ngãi), bạn đừng quên ghé các quán bình dân gọi tô ốc đá hấp để hút và bát canh rau ranh, ốc đá để ăn. Món ăn dân dã nhưng hấp dẫn nên nhiều du khách sau khi thưởng thức còn tìm mua một ít mang về thành phố làm quà cho bè bạn…[FONT=&quot][/FONT]
Từ TP Quảng Ngãi về huyện miền núi Trà Bồng, ngang đoạn giáp giới giữa xã Trà Phú và Trà Xuân, nếu để ý bạn sẽ thấy nhiều người kê bàn hoặc mang sọt bán mớ rau ranh tươi và ốc đá còn sống bên vệ đường. Muốn thưởng thức tại chỗ, vào các quán cơm ở thị trấn Trà Xuân hầu hết đều có bán món ốc đá luộc sả ớt hoặc món canh rau ranh, ốc đá.
Du khách sang hèn đều khoái khẩu món ăn dân dã đầy phong vị miền núi này. Gọi vài tô ốc luộc bốc khói rồi bốc từng con đưa lên miệng hút nhẹ là ruột ốc béo ngậy cộng với hương vị cay xè của ớt và mùi thơm của sả đã "chạy" ngay vào miệng. Thực khách trẻ tuổi đến quán gọi tô ốc đá thường kêu thêm xị rượu để nhấm nháp đưa cay. Hút chán, gọi bát canh rau ranh ốc đá cũng nghi ngút khói lên ăn với cơm. Bát canh rau ranh mềm mại nhai nghe bùi bùi, cộng với ốc đá béo ngậy.
Canh rau ranh ốc đá bao giờ cũng có ít đậu xanh sền sệt nên ăn vào vừa mát vừa bổ dưỡng. Mùa nắng nóng, ăn bát canh rau ranh ốc đá xuất mồ hôi thấy nhẹ cả người. Tô ốc đá chỉ 3.000-4.000 đồng, còn bát canh rau ranh ốc đá thường tính kèm với các món ăn trong bữa cơm nhưng quá lắm cũng chỉ vài ba ngàn đồng.
Để có tô ốc, bát canh rau ranh hài lòng thực khách là câu chuyện dài.
Ở huyện miền núi Trà Bồng có nhiều loại cây rừng. Cây rau ranh có đặc điểm thân thẳng, lá dài giống lá mảng cầu xiêm nhưng mỏng hơn. Loài cây này mọc trên những đồi thấp ven dòng suối, có cây cao chừng vài mét, đường kính gốc cây dài hơn 1dm. Trong thời điểm chớm mùa mùa mưa hay mùa xuân về cây mọc lá non nhiều nên nếu còn nhỏ thì đồng bào dùng tay bẻ cành non, cao to thì dùng rựa đốn hạ rồi bẻ lấy đọt non đem về.
Trên huyện miền núi này có nhiều sông, suối đổ ra sông Trà Khúc hoặc sông Trà Bồng. Đây chính là chỗ trú ngụ sinh sôi nảy nở của ốc đá. Ốc có màu đá đen đùng đục chuyên bám vào đá nên gọi là ốc đá. Trong thời điểm tháng tám, tháng chín hằng năm khi trời mưa dông, ốc đá xuất hiện càng nhiều.
Rau ranh, ốc đá từ lâu đời là món ăn quen của đồng bào dân tộc Cor nên ở Quảng Ngãi lưu truyền câu ca:
“Rau ranh, ốc đá
Là cá nậu (người) nguồn”

Muốn bắt ốc người ta thường mang rổ đi dọc dòng suối gỡ từng con bám vào vách đá hoặc lấy tay lùa bắt. Ốc bắt xong đem về rửa sạch, bán cho hàng quán hoặc báncho thực khách mang về chế biến thức ăn.
Để chế biến ốc, người ta thường giã ớt tươi hoặc lấy nhúm ớt khô bỏ vào chậu ốc đổ nước, quậy đều để chừng mươi phút thì toàn bộ nhớt và đất cát trong ốc thoát ra ngoài. Sau đó, rửa sạch rồi dùng kềm để bấm hoặc kê thớt chặt đuôi ốc. Làm như thế sau khi luộc chín mới hút được ốc.
Khi ốc được chặt đuôi xong, người ta bắt chảo lên bếp đổ dầu đun cho dầu chín rồi đổ ốc vào tao qua chừng năm phút mới đổ nước xâm xấp nồi và bỏ ớt, sả vào luộc sôi chừng vài chục phút, ốc chín đem ra dùng.
Còn món canh rau ranh, ốc đá thì sau khi ốc được chặt đuôi xong bỏ vào nồi thêm nhúm gạo, đậu xanh rồi bắc lên bếp nấu vài chục phút. Sau đó,lấy lá rau ranh non vò nhẹ bỏ vào cho sôi rồi mới nêm nếm cho vừa miệng thì múc ra tô. Thông thường người ta ăn bát canh rau ranh ốc đá có đầy đủ vị ngọt, bùi rồi mới bốc từng con ốc đưa lên miệng hút.
Món rau ranh, ốc đá dân dã cây nhà, lá vườn này lâu nay không chỉ là món ăn quen của người dân địa phương mà còn hấp dẫn nhiều du khách. Và trong thời buổi "thịt cá đủ đầy" thì món ăn quê này lại được nâng lên hàng đặc sản nên khi đi xa về nó lại trở thành món quà quý mà nhiều du khách dùng tặng người thân.
hic,giới thiệu món nhậu mà chả có pic mang tính chất....tai họa nào hết,đọc chữ ko thì chán lắm bác ơi,nói có sách mách có chứng,vậy a e mới tin chứ,trăm nghe ko bằng 1 thấy mà
Về biển La Gi nếm bò hòm nướng
Vốn có duyên với biển La Gi từ nhiều năm trước, bẵng cả chục năm, mùa hè năm nay có dịp về lại vùng biển mút đầu phía nam của Bình Thuận này, tôi mới được nếm thử món bò hòm nướng ở bãi Đồi Dương lộng gió dạt dào sóng vỗ bờ cát mịn.
Từng ngồi xe máy đi khắp các bãi biển đẹp của Bình Thuận, từ bãi Đồi Dương, Mũi Né (TP Phan Thiết) đến chùa Hang (huyện Tuy Phong) và các bãi tắm hoang sơ giữa biển khơi của huyện đảo Phú Quý, món cá bò hòm nướng mà theo lời đồn thổi của dân sành ăn là chỉ có ở vùng biển thuộc huyện Hàm Thuận Nam, Bình Thuận chẳng xa lạ gì với tôi.
Song những lần trước khi nếm món cá bò hòm nướng ở Bình Thuận, tôi chỉ toàn được thưởng thức món cá nướng rã ra từ cá đông lạnh. Ở nhiều quán đặc sản biển nổi tiếng ở dọc đường Võ Thị Sáu men sông Cà Ty, TP Phan Thiết cũng có món cá bò hòm, nhưng chưa khi nào tôi may mắn được ăn con cá bò hòm tươi rói vừa mang từ làng chài về. Lần về thị xã La Gi này, tôi mới được biết con cá bò hòm tươi sống nướng thơm ngon thế nào.
Những ai từng nhìn thấy con cá bò hòm cũng đều phải thích thú vì cái tên người dân địa phương đặt cho loại cá này theo kiểu "trông mặt bắt hình dong" của người xưa. Anh bạn thổ địa bảo rằng do con cá đặc sản ngon có tiếng này có bản mặt nhìn giống con bò, còn thân hình nó có hình thù vuông vức như chiếc hòm nên dân gian gọi nó đơn giản là "bò hòm". Mà thật, anh chàng bò hòm này trông hình dáng rất ngộ nghĩnh với bộ khung xương cứng chắc dưới lớp da lốm đốm đen khiến chú ta chỉ có thể di chuyển bằng cái đuôi ngúc ngoắc ngắn ngủn và đôi vây bé xíu, thêm một chiếc vây lạ đời như cái quạt mo chĩa ngược trên lưng.
Dân sành ăn đều biết cá bò hòm thuộc giống cá nóc, thịt trắng phau, có sớ dọc và dai giống hệt thịt gà, mùi thơm cũng không hề nghe mùi cá. Đứng đầu bảng thực đơn đặt món cho buổi picnic hôm ấy ở bãi Đồi Dương - La Gi đương nhiên là món cá bò hòm nướng. Lên món rồi, chủ quán mới đi chợ. Có lẽ quán không xa cảng cá La Gi là mấy nên khách đặt món rồi mới đi chợ cho tươi ngon. Và cũng nhờ biển La Gi ở kế bên biển Hàm Thuận Nam nên chúng tôi mới có cá bò hòm tươi mà thưởng thức.
Bếp than cháy đỏ đã sẵn sàng dọn lên ngay cạnh bàn ăn bên bãi biển. Cả nhóm chúng tôi thích ăn theo kiểu hoang sơ của ngư dân, chẳng cần làm ruột hay ướp thêm một thứ gia vị gì cả, cứ thế mà rửa sạch bỏ lên bếp than đỏ hồng mà nướng xèo xèo.
Vừa nhanh tay lật phần lưng của chú cá áp xuống lò than, anh chủ quán vừa giải thích: "Thịt cá dồn cả về sống lưng nên phải nướng kỹ phần lưng, thịt cá mới chín tới". Gió lộng ngoài bãi biển rộng rãi quạt hầu cho bếp lò nướng cá càng thêm đượm, đưa mùi cá nướng thơm phưng phức loang đi.
Nướng đến khi mùi thơm tỏa cùng khắp thì cái thân hòm gắn kết bởi những mảnh xương hình lục giác của chú cá bỗng nứt toác ra, hé lộ những thớ thịt trắng tinh. Anh Thời chủ quán bảo do cá còn tươi sống, không qua xử lý luộc chín trước khi nướng giống như những chú cá bò hòm đông lạnh của các quán ở Phan Thiết, Mũi Né nên không giữ được nguyên dạng khi nướng chín.
Và rồi anh chủ quán phải ra tay xử lý chú bò hòm đã bị nứt khoe hết các sớ thịt chạy dọc hai bên lườn. Lạ lùng là cá bò hòm khi mở "cái hòm" của chú ra thì không hề thấy có xương con, chỉ có một cột xương sống chạy dọc thân hình. Anh bạn thổ địa bảo chú cá bò này đã đẩy hết bộ xương ra ngoài dưới lớp da nên đỡ lo hóc xương. Mà thịt của nó ngon và quý cũng vì vậy.
Tán dóc trong khi thưởng thức mùi cá nướng thơm phức để chờ cá chín, rồi cũng đến lúc món cá nướng chín vàng tỏa mùi điếc mũi cũng được dọn ra. Anh bạn "bếp phó" trong nhóm chúng tôi không cưỡng được mùi thơm nức mũi, nhón ngay lấy miếng cá nướng bốc khói trên bếp lửa vừa phù phù thổi, vừa hít hà khoan khoái. Chủ quán khéo léo gỡ từng sớ thịt trắng tinh tươm xếp dọc ra đĩa. Cũng chẳng cần phải bánh tráng với chuối xanh, khế chua làm gì cho mất vị nguyên sơ của con cá quý.
Theo lời anh Thời chủ quán, chúng tôi cứ thế mà xé từng sớ thịt trắng bóc như gà luộc ghép cùng vài lá rau húng lủi xanh non rồi chấm với dúm muối ớt để mà xuýt xoa, hít hà vì... quá ngon! Húng lủi dìu dịu thơm cay quyện cùng với muối ớt cay nồng như đẩy vị thịt cá thơm dai ở đầu lưỡi thấm tới tận chân răng.
Ngoài kia, gió biển vẫn không thôi góp thêm vào chút vị muối mặn mà cho món cá nướng dân dã của chúng tôi càng thêm đậm đà khó quên, át hết cả mùi của mực nướng, gỏi ốc giác trên bàn.
Quả tình là không gian, mùi vị của biển đã làm dậy lên hương vị nguyên sơ của món cá bò hòm nướng lên bội phần. Một thứ hương vị biển mà chúng tôi chẳng thể nào mang theo về phố thị...

Những món ăn huyền thoại


Có những món ăn cổ xưa nghe như chuyện hoang đường, những món ăn được liệt vào kỳ trân, món ăn tiến vua hay món chế biến khác thường... Xin ghi lại một vài món để bạn đọc thưởng thức. [FONT=&quot][/FONT]
Rắn, chim và... chuột "nhân sâm"
Cũng phải nói thêm rằng khi xưa, các chính khách, thương nhân không ngại tốn thời gian ngồi trầm ở các nhà hàng sang trọng, bởi qua món ăn đó họ có thể thám dò được nội sự cung đình. Đột ngột nhà hàng đổi thực đơn có nghĩa đại nội sắp có biến đổi; món ăn mới thịnh hành có thể suy đoán ra nhân vật được cất nhắc...
Nhắc đến món ăn cổ xưa không thể bỏ qua chuyện một nhà vua mê ăn cá mà chết! Thời chiến quốc, Công Tử Quang, tướng Ngũ Tử Tư mưu sát vua nước Ngô là Ngô Vương Liêu nhưng bất thành, bởi vua Ngô không mê tửu sắc, tướng lĩnh khó tiếp cận. Tử Tư phát hiện vua chỉ mê mỗi món... cá nướng nên tìm cách chiêu dụ đầu bếp lang bạt Chuyên Chư. Món cá nướng do đầu bếp quái dị này nêm nếm chẳng giống ai, gia vị là mật o­ng trăm năm lấy trên mỏm núi cheo leo ! Chính món cá nướng có tên cầu kỳ "Tứ tai hi mật tiến" và cách rưới mật o­ng tạo mùi thơm khác thường làm vua Ngô thèm ăn quên phòng bị nên mới chết.
Xưa có 8 món ăn liệt vào bát trân và giờ nhắc lại không ít người vẫn còn tranh cãi về cái vị của nó. Bát trân gồm nước dãi yến, nem công, chả phụng, môi đười ươi, da tê ngưu, bàn tay gấu, thịt chân voi, gân nai. Các ngự trù được vua sủng ái, các đầu bếp được quan lại, nhà hàng trọng thị thì vinh lộc hưởng cả đời. Cho nên ngự trù, đầu bếp không ngừng biến tấu tìm những món lạ miệng phục vụ tầng lớp thượng lưu. Quý bạn đọc còn nhớ Quách Tĩnh (trong Xạ điêu anh hùng truyện) may mắn uống máu mãng xà tăng cường công lực, ai cũng ngỡ đây là chi tiết nói dóc nhưng ngoài đời là có thật. Vốn huyết mãng xà thân màu xám nhưng do chủ nuôi cho nó ăn thức ăn cực xịn như sâm nhung, đan sa nên mới có dị hình đỏ như máu. Bồi bổ cho rắn để người ta mỗi ngày... hút máu nó hầu "cải lão hoàn đồng". Rắn ăn sâm nhung nghe khôi hài và khó tin nhưng chim ăn sâm thì có thật và loài dị cầm này từng là món ăn tiến vua. Đó là giống chim di trú từ phương Bắc về phương Nam, tên chúng dân miền Bắc đều biết đến: sâm cầm. Thế thì nhân sâm giá đắt đỏ ở đâu có mà nuôi chim nổi, xin thưa trong hoang dã chúng đào bới ăn nhân sâm trên đỉnh các núi cao ở Trung Quốc, Hàn Quốc. Mấy năm trước chúng xuất hiện nhiều ở Hồ Tây, Hà Nội, nay số lượng rất ít bởi bị săn lùng tận diệt. Sâm cầm từng là món khoái khẩu của vua Tự Đức bởi truyền miệng chúng ăn nhân sâm chuyển thành máu huyết nên ăn thịt chim sẽ bồi bổ sinh lực, tinh thần minh mẫn. Quanh chuyện rắn, chim ăn nhân sâm vẫn còn một món ăn cổ xưa khá ly kỳ: chuột nhân sâm. Đây là món ăn tốn kém chỉ có vua quan nhà Thanh mới đeo nổi. Người ta chọn những con chuột bạch và nuôi vỗ chúng bằng nhân sâm, khi chuột đẻ người ta loại chuột bố mẹ và nuôi tiếp chuột con bằng nhân sâm. Cứ thế qua ba bốn thế hệ ăn nhân sâm lúc này máu chuột đã như... nhân sâm, người ta bắt chuột con mới sinh thoa một lớp áo ngoài bằng bột, không chế biến xào nấu gì cứ thế mà đưa lên miệng nhai từ tốn.
Những món ăn lạ ngày nay
Nhà văn Sơn Nam từng ví von đuông chà là bằng cái tên thật ngộ: Hồ đa tử. Hình thù béo ú xấu xí hơn con sâu nhưng đuông chà là vẫn được ông Nguyễn Nhá Ý, tác giả lỗi lạc bộ đại từ điển Việt Nam cho là món ăn quý. Ở thôn quê miền Tây, đuông chà là, đuông dừa chẳng ai lạ gì bởi chúng là loài phá hoại cây dừa, chà là... Nhắc đến đuông chà là không thể bỏ qua giai thoại vui ở xứ sở công tử Bạc Liêu, đó là hội đồng Điều, thông gia của hội đồng Trạch mê ăn đuông lắm. Để tìm ra vị lạ của các loài đuông, ông hội đồng Điều không cho chúng ăn cây dừa, chà là, cau mà ép phải ăn mía. Cứ 1 cây mía ông khoét lỗ rồi bỏ đuông vào, khi thấy cây mía xơ xác ông mới bổ mía lôi đuông ra ăn. Ngon lành chỉ mình ông biết nhưng cách ăn đuông lạ đời đã để lại câu chuyện nửa hư nửa thực bổ sung cho những câu chuyện ẩm thực kỳ thú đất Bạc Liêu.
Xưa miền Bắc có cá anh vũ rất nổi tiếng được vua chúa ưa thì ở miền Tây Nam bộ cũng có loài cá kỳ lạ là cá cháy. Chúng chỉ xuất hiện ở ngay khúc sông Hậu giáp ranh giữa Trà Ôn (Vĩnh Long) và Cầu Kè (Trà Vinh), còn trật ra khỏi đoạn này ít ai thấy chúng. Một điều kỳ lạ khi sương mù dày đặc là cá cháy lại lên mặt nước đớp khí, người ta cho rằng cá hấp thụ sương khí đất trời nên thịt mới dai, mềm, sạch ! Cá cháy màu trắng, con nặng lắm khoảng 2 kg, chúng mau chết lắm, lên khỏi mặt nước vài phút là lìa đời. Cá chỉ xuất hiện trước và sau tết nguyên đán, sau đó chúng bơi đi đâu biệt tích. Nhà sử học Trịnh Hoài Đức từng nếm thử mùi vị cá và không ngại ngần gọi cá cháy là thiều ngư. Cá cháy bây giờ khó tìm lắm.
Nói đến món ăn lạ thì không thể bỏ rươi qua một bên. Đây là giống hải trùng kỳ lạ cứ tới tháng 11, 12 ( âm lịch) lại loi ngoi xuất hiện ven biển. Lạ một điều là chưa thấy loài nào yêu đương "tàn bạo" như rươi, cả đời chúng chỉ chờ đợi ái ân vài giây rồi buông mình chết. Ở miền Tây có nơi gọi rươi là con dời, còn nước mắm rươi gọi là... nước mắm dòi. Nghe tên thấy ớn, nhìn hình dạng thấy ghê nhưng rươi là loài sạch sẽ. Nước mắm rươi khi ủ không cần đuổi vì ruồi muỗi chẳng dám bay gần ! Lạ một điều nữa là rươi mềm sụm như cọng lá nhưng thịt chúng giàu chất đạm và có tác dụng bồi bổ xương người già, trẻ em. Một vài hộ ở thị xã Bến Tre đã tự tin bán nước mắm rươi 1 lít 12.000đ với dòng chữ: "Nước mắm rươi".
Cồi biên mai, món lạ vùng biển Hà Tiên

Hình dáng con biên mai, bao gồm 2 miếng võ màu xanh đầy rong rêu ốp lại. Phía đầu to, đằng đuôi tóp nhỏ tựa hồ bắp chuối hột. Các anh Chu Lang và Trương Minh Đạt cho biết con biên mai có nhiều ở quần đảo Hải Tặc thuộc huyện Hà Tiên. Chúng xuất hiện ở những thềm đá ngầm với độ sâu cỡ 5m. Đuôi biên mai dính khắn vào mặt đá, thân đứng thẳng dập dềnh mở, khép miệng theo hơi thở chờ rong tảo hoặc phiêu sinh vật tấp vào mà ngậm miệng lại. [FONT=&quot][/FONT]
Các thợ lặn chuyên sống nghề biển, gở từng con biên mai quăng lên tàu cho những người ngồi trên dùng chày đập bể ra, cạy lấy miếng thịt bên trong nơi hai mép vỏ gắn lại. Miếng thịt đó gọi là “Cồi”, dày và lớn tương tự lát cau khô. Được biết thêm, một tấn biên mai sẽ cho được 1kg cồi tươi, còn bao nhiêu thì bỏ không sử dụng nữa.
Muốn ăn cồi biên mai phải ướp phụ gia: tàu vị yểu, tiêu, mỡ, muối... vì đây là đặc sản độc đáo của xứ biển Hà Tiên.
Khi bày ra thưởng thức “cồi biên mai”, món hải vị hiếm quý, phải là nơi có phong cảnh thơ mộng, hấp dẫn như cõi tiên, cụ thể như tại một ghềnh đá cao, dưới ánh trăng vàng, cạnh hàng dừa lả lướt. Đêm tĩnh lặng, bày thêm bếp lửa bập bùng. Sóng biển thì thào theo từng sóng lá dừa xao động. Năm bảy thực khách dùng que cọng lá dừa dài khoảng 2 tấc xiên vài viên cồi biên mai, hơ qua, hơ lại trên bến than rừng rực lửa. Thực khách thích ngọt thì áng chừng miếng cồi vừa chiên tới. Còn ai thích ăn thơm thì để lâu cho thật khô đến vàng lườm. Mùi thơm lựng và vị ngọt tổng hợp, thực khách nếm vào nghe tê tái ở đầu lưỡi. Đến khi nhai, ta có cảm giác cái ngon chạy rần rần dài theo sống lưng, đê mê. Thực khách đưa cay thêm chung rượu nếp làm ấm áp cơ thể. Chất dịch vị từ chân răng tứa ra, khoái cảm vô cùng, ấm nồng đến tận kẻ tóc...
Vâng “Cồi biên mai” là món ngon lạ lùng, không bút mục nào tả nổi.

Phá pa vắng hảm
Với người Thái Tây Bắc, cá là món ăn và là đồ dẫn cưới không thể thiếu. Tục ngữ Thái có câu: ''Khẩu báu út, pa báu dá'', tức là: Không đói cơm, không thiếu cá, để nói lên tầm quan trọng của cá trong đời sống, cá được coi ngang với thóc gạo. Không đói cơm, không thiếu cá, thì cuộc sống no đủ sung túc.
Sau những ngày lao động, có được: "Khẩu đón, tón pa khao", tức là gạo trắng miếng cá bạc, là niềm vui chân chính của người lao động.
[FONT=&quot][/FONT]
Trong đồ dẫn cưới, bao giờ cũng có các món "pa pỉnh", "pa pỉnh tộp", "pa giảng"-các món cá nướng, sấy, đựng trong những chiếc giỏ nan hồng xinh xắn. Đặc biệt còn có đôi cá làm bằng gỗ, tượng trưng cho loài cá tiên đã không còn ở hạ giới.[FONT=&quot][/FONT]
[FONT=&quot][/FONT]
Theo truyền thuyết của người Thái, ngay từ khi sinh ra loài người đã có 330 giống cá sống dưới nước.[FONT=&quot][/FONT]
Người Thái coi trọng việc đánh cá dưới nước, bởi ngoài cung cấp thực phẩm, còn mang ý nghĩa đem lại sự may mắn.[FONT=&quot][/FONT]
[FONT=&quot][/FONT]
Có nhiều cách được sử dụng để đánh bắt cá, nhưng vui nhất là các cách bắt cá tập thể: "Hô pa"-hò cá, "xé pa"-chọc cá, "phá pa"-phá cá, đặc biệt là "phá pa vắng hảm"-phá cá ở vũng cấm.[FONT=&quot][/FONT]
[FONT=&quot][/FONT]
"Hô pa"-hò cá:[FONT=&quot][/FONT]
[FONT=&quot][/FONT]
Cách đánh bắt cá này chỉ cần có năm đến mười người, dàn thành hàng ngang, dùng gậy gỗ tươi, bóc vỏ để có màu trắng, vừa chọc cây xuống nước, vừa hò hét xua cá vào nơi đã đặt vó đón đầu, cá thấy động lao vào chỗ đặt vó.[FONT=&quot][/FONT]
[FONT=&quot][/FONT]
"Xé pa"-chọc cá:[FONT=&quot][/FONT]
[FONT=&quot][/FONT]
Cách thức giống như "hô pa" nhưng đông người hơn, vui và bắt được nhiều cá hơn. Người dùng gậy trắng trọc vào nơi cá ở, người vác đá ném và hò hét vang động cả quãng suối.[FONT=&quot][/FONT]
[FONT=&quot][/FONT]
"Phá pa"-phá cá:[FONT=&quot][/FONT]
[FONT=&quot][/FONT]
Cách này phải huy động, tập hợp cả bản xuống suối xua đuổi và bắt cá. Sự phân công lao động rất hợp lý: Nam giới người dùng chài, người dùng tay không bắt cá trong các hốc đá. Nữ dùng vợt xúc, còn trẻ em và người già cất vó đón lõng. Núi rừng vang động tiếng nói cười, tiếng hò hét.[FONT=&quot][/FONT]
[FONT=&quot][/FONT]
"Phá pa vắng hảm"-phá cá ở vũng cấm:[FONT=&quot][/FONT]
[FONT=&quot][/FONT]
Trước hết vũng cấm thường là những nơi suối sâu hay một quãng sông thuận lợi cho cá ở. Những nơi này bản cấm đánh hai, ba năm và được đánh dấu bằng cách dựng một tấm phên đan mắt cáo. Đến kỳ hạn, trưởng bản cho phép và tổ chức cả bản cùng đi đánh bắt.[FONT=&quot][/FONT]
[FONT=&quot][/FONT]
Xưa kia vũng cấm là độc quyền sở hữu của phìa tạo.[FONT=&quot][/FONT]
[FONT=&quot][/FONT]
Đây cũng là kiểu "phá pa" nhưng ở nơi vũng cấm có nhiều cá hơn nên đông người, vui như hội và thu được rất nhiều cá. Người xưa phá cá ở vũng cấm được coi là ngày hội của bản mường.[FONT=&quot][/FONT]
[FONT=&quot][/FONT]
Các trai bản đặc biệt vui mừng vì đây là một dịp trổ tài. Niềm vui nao nức chẳng khác nào được người yêu mời đến làm hộ ruộng. Sự lôi cuốn của ngày hội phá cá rất lớn, khó có ai có thể cưỡng lại được. Bởi thế người Thái có câu: "Ăn nưng chụ van na, ăn nưng phá pa vắng hảm?", tức là: "Một đường người tình mời làm ruộng, một đường phá cá vũng cấm, sẽ đi đường nào?".[FONT=&quot][/FONT]
[FONT=&quot][/FONT]
Điều thú vị là người đi qua đường cũng có thể tham dự đánh bắt cá và được chia công bằng với mọi người. Tất cả các thành viên vui vẻ lao động và hưởng theo nguyên tắc cùng làm cùng hưởng.
[FONT=&quot][/FONT]
Cách đánh bắt cá tập thể của người Thái Tây Bắc gợi cho ta liên tưởng tới sức mạnh của cộng đồng thuở sơ khai, để khai phá đất đai, trị thủy, chiến đấu chống lại kẻ thù hai chân và bốn chân.[FONT=&quot][/FONT]
[FONT=&quot][/FONT]
Ngày nay, khi con người đang tàn phá thiên nhiên một cách thiếu ý thức, đánh bắt cá bằng chất độc, xung điện và chất nổ, thì các cách đánh bắt cá của người Thái Tây Bắc quả đáng quý, cần khôi phục và phát huy, bởi đó là văn hóa.[FONT=&quot][/FONT]
meotruli
TÍCH CỰC
16 năm
Ở Cần Thơ, Sóc Trăng thì có món nhậu nào hả bác 😁
Cào cào tre rang, nướng

Làng tôi xưa kia nhà nào cũng có ít nhất vài bụi tre gai ở đầu ngõ hoặc sau vườn. Có nhà, xung quanh bờ vườn toàn tre là tre. Tre với đời sống sinh hoạt của người dân quê gắn bó keo sơn từ bao đời. Những vật dụng trong nhà, động đến thứ gì cũng làm từ cây tre mà ra. Với bọn trẻ chúng tôi hồi ấy nếu không có tre thì cũng chẳng có cái bẫy chèo pheo, chim cuốc. Và chẳng bao giờ được… ''nghiện'' món cào cào tre rang, nướng.
Cào cào tre to hơn cào cào ngoài đồng, có màu vàng ngà, con cái to bằng ngón tay trỏ trẻ con, con đực to bằng đầu đũa, chúng xuất hiện nhiều nhất vào giữa mùa hè, từng đôi "cặp díp" nhau đậu kín trên những cành tre, tay tre tưởng như bất động, nhưng lại rất nhạy cảm với mọi động tĩnh xung quanh. Việc dùng tay trực tiếp chộp bắt chúng là rất khó khăn, chúng lại đậu ở trên cao. Muốn bắt chúng chẳng còn cách nào khác là dùng nhựa ở quả mít quánh đặc to bằng hạt ngô đính vào một đầu või tre cật vót thật nhỏ như gọng ô dài chừng một mét, rồi buộc nối vào cây tre róc dài tùy ý để dính chúng hoặc buộc một thòng lọng bằng cước thật nhỏ vào đầu või tre rồi khéo léo luồn vào thân mình chúng mà khẽ giật. Người lớn cũng đã nghĩ ra cách dùng vợt bằng lưới, bằng vải màn nhưng bắt không được, bởi gai tre sẽ mắc vướng vào làm rách lưới, không gỡ ra được.
Bắt được một ít cào cào bọn trẻ chúng tôi cứ để nguyên cả con, xiên vào một que sắt hoặc que tre nhỏ xíu nướng hoặc bóp chết rải lần lượt trên than hoa mà nướng cho tới khi chân, cánh chúng cháy trụi, chuyển sang màu nâu cánh gián và tỏa ra mùi thơm béo ngậy là ăn được. Cũng chẳng đứa nào thèm cấu đầu, rút ruột vì sợ "hết thịt" và ăn nó xác. Bọn tôi nghĩ rằng thức ăn của nó là lá tre non, mà lá tre các cụ lang y gọi là vị thuốc "trúc nhự", có tác dụng thanh tân, giải nhiệt, nên chẳng cần vệ sinh cẩn thận làm gì.
Nếu bắt được nhiều, đủ một bữa ăn cho cả gia đình thì mang về chế biến cẩn thận, cấu cánh, cấu đầu, rút ruột, vặt gai ở càng, rồi rắc ít muối vào xóc cho đều, để độ vài ba phút, sau đó rửa lại bằng nước sạch, rồi vớt ra để ráo nước. Chờ chảo nóng già, cho vào một lớp mỡ lợn mỏng láng đều, đổ cào cào vào rang nhỏ lửa khi nào thấy có mùi thơm đặc trưng, từ màu vàng ngà chuyển sang màu nâu thì tra chút nước mắm vào đảo đều tới khi khô cạn bắc chảo ra, múc cào cào bày lên đĩa rồi rắc lá chanh thái chỉ lên trên.
Cào cào tre rang hoặc nướng, ăn nóng có thể nhâm nhi với rượu, hay giầm vào bát mắm chanh ớt để ăn với cơm. Một món ăn dân dã, mang hương vị làng quê. Ngày nay, khi mà cuộc sống kinh tế nông thôn ngày một đi lên, những lũy tre được thay bằng những bức tường bao xây kiên cố, thì những đĩa cào cào tre rang, nướng đạm bạc cũng vắng bóng dần trên mâm cơm ngày hạ. Họa chăng có còn cào cào tre, thì giờ đây nó đã là một món đặc sản và chắc gì người dân quê còn được thưởng thức.



Mắm ruột cá ngừ Quy Nhơn


Biển khơi, ruộng đồng, sông suối là nơi môi trường sinh sống của hàng ngàn, hàng vạn loại cá. Có loài cá, người ta chỉ ăn được phần thịt. Nhưng có loài cá, người ta không chỉ ăn được phần thịt mà còn ăn được cả phần ruột, nội tạng bên trong của nó. Ăn ngon nữa là đằng khác. Ruột con cá ngừ là một minh chứng.
Món luộc hay nấu ruột cá ngừ, chắc có lẽ rất nhiều người đã biết, quen làm và hay được thưởng thức ở tại nhà hoặc nơi quán xá, nhà hàng. Ruột cá ngừ mà làm mắm để ăn thì chắc chắn không phải người nào cũng đã ăn. Đó chính là sản phẩm độc đáo, khả năng mày mò, khéo léo đến cảm phục chỉ có ở các bà, các mẹ, các chị thuộc thành phố biển Quy Nhơn (Bình Định). Đi khắp thành phố biển ấy, hỏi đến người đàn bà, con gái nào, họ cũng đều kể cho biết cách làm món này hết sức tỉ mỉ, tường tận, với một giọng điệu say sưa, đầy tự hào. Chúng tôi có cảm giác như mọi người con gái, phụ nữ xứ sở này vừa chui ra khỏi bụng mẹ đã được truyền và biết cách làm rồi.
Cách làm mắm ruột cá ngừ cũng khá đơn giản, chẳng có gì cầu kỳ, mất thời gian của bạn đâu nhé. Cái quan trọng trước tiên là người làm mắm phải mua, chọn cá cho thật tươi. Cá càng tươi, càng to thì mắm càng ngon, càng lắng đọng nhiều dư vị. Đương nhiên, khối lượng ruột cá mỗi lần dầm mắm chí ít cũng phải được 10 lạng trở lên. Nếu ít hơn, thật ra không có điều gì đáng lo ngại nhưng chỉ sợ làm hụt hẫng nhu cầu thưởng thức của cả nhà bạn đang ở độ cao trào mà thôi.
Ở ngoài chợ, loại cá này đầy ăm ắp, đâu sợ thiếu bao giờ. Dùng dao cắt khéo ở phần bụng lôi trọn vẹn phần nội tạng bên trong ra, gạt bỏ bao tử, gan, chỉ lấy nguyên ruột, không cho vấy bẩn, không rửa ráy gì hết (đừng rửa vì ruột cá ngừ tuyệt nhiên không có chất bẩn, chất độc) rồi bỏ từng cái ruột vào thẩu nhựa hoặc thủy tinh, đậy nắp thật kín, cùng với muối sống, muối hột theo tỷ lệ hai ruột-một muối là được. Cỡ chừng 15 ngày sau, khi chất muối mặn đã thâm thấm vào từng ruột cá thì trong thẩu bắt đầu xuất hiện một lượng nước, có màu đục sẫm, đấy là tinh chất của ruột cá tiết ra, lượng nước này tăng dần lên ở giai đoạn tiếp theo. Sau ba tháng, kể từ ngày muối mắm là thời gian thích hợp, lý tưởng cho việc mở nắp, "khui" ra ăn. Múc ra bát, nước mắm ruột cá ngừ đằng đặc, sền sệt như nước mắm cái, như nước xốt hảo hạng của vùng duyên hải miền Trung ấy (còn phần xác ruột cá thì bỏ đi). Cần chút gia vị như ớt, tỏi, ít quả cà pháo nhỏ và vài miếng thơm (dứa) xắt mỏng, nhỏ thả vào tô điểm cho bát mắm ruột cá ngừ thêm phần hương vị ngọt ngào, hấp dẫn và sang trọng.
Nước mắm này có vị đậm, thơm, ngọt vừa giống vừa khác với hương vị của mắm cái chính hiệu. Dùng nó để chan, ăn với cơm nóng, bún, bánh hỏi, bánh cuốn thì ngon miệng phải biết. Mắm ruột cá ngừ có nét giống như những món muối chua là không thể giữ được lâu, phải ăn hết, không cho phép để thừa. Người Quy Nhơn dám cam kết với bạn rằng không ngon, không đặc biệt, không bao giờ mời mọc nữa. Đảm bảo ăn đến "thủng nồi, trôi rế" mới thôi. Rẻ tiền, dễ làm mà lại ngon, bổ dưỡng, tốt cho tiêu hóa, đó là lý do chính để món mắm ruột cá ngừ này ngày càng trở lên phổ biến, quen thuộc trong góc đời sống ăn uống của mọi nhà, mọi người nơi đây. Có những chị em gốc Quy Nhơn đi lấy chồng xa, ở xứ người nhưng vẫn không quên món ăn nổi tiếng của quê mình, thỉnh thoảng ra chợ mua ruột cá ngừ về, lặng lẽ làm gọn gàng, sạch sẽ, đợi đến ngày mắm được, trưng ra trong bữa ăn, cả nhà vừa ăn vừa gật gù khen ngon. Và họ còn vui vẻ, sẵn sàng chỉ bày cho các chị em xứ người có nhu cầu tìm tới món ăn ngon từ ruột cá ngừ.
Dường như, từ lâu, món mắm này đã chiếm vị trí hàng đầu trong những đặc sản nổi tiếng của quê hương đất võ Tây Sơn, sánh cùng món: bánh hỏi, bánh ít lá gai, Hàu Ghềnh Ráng… Khỏi cần phải giới thiệu cho lâu, cho nhiều, mời bạn hãy đến Quy Nhơn ăn món đó rồi sẽ biết nó như thế nào.


Lẩu cháo cá khoai


Món ăn có cái tên nghe là lạ này là một món ăn thể hiện sự độc đáo trong cách chế biến các món ăn của người Nam Bộ. Có không ít người chưa ăn, không khỏi thắc mắc về tên gọi của nó. Lẩu là lẩu, cháo là cháo, tại sao lại là lẩu cháo. Vậy đó, thử dịp nào bạn xuôi về phương Nam tìm ăn thử món này, tự khắc bạn sẽ có câu trả lời thỏa đáng.
Sở dĩ gọi là lẩu cháo vì nấu cháo như lẩu, đơn giản thế thôi. Thay vì nồi lẩu nấu bằng nước súp thì ở đây nấu bằng cháo. Và ở Nam Bộ này, đâu chỉ có duy nhất lẩu cháo cá khoai, mà còn có lẩu cháo cá lóc-rau đắng nữa. Mỗi thứ có một hương vị riêng, có cái ngon riêng. Tùy theo sở thích của mỗi người mà chọn cho mình một món ăn hợp khẩu vị.

Cá khoai là loại cá nước mặn, mình tròn, thân dài và ốm, thường được làm khô. Khô cá khoai nướng chấm với nước mắm me làm mồi nhậu thì không chê vào đâu được. Không như các loại cá khác, thịt cá khoai đem phơi khô tóp lại rất nhiều. Một con cá khoai to lớn mà đem làm khô thì chỉ còn lại không bằng ngón tay cái của người lớn. Khô cá khoai ăn rất ngon nên cá khoai thường được người ta chọn làm khô. Tuy nhiên, cũng có khi người ta ăn cá khoai tươi, như lẩu cháo cá khoai chẳng hạn. Thịt cá khoai tươi rất bở, dễ vỡ ra khi nấu nhưng lại ngọt vô cùng có lẽ vì thế mới có tên cá khoai. Ăn không cần nhai, ăn thịt cá khoai như người ta ăn cháo vậy.

Đi với vài người bạn, ghé vào một quán nhậu nào đó ở Nam Bộ có bàn món này, bạn kêu một cái lẩu cháo cá khoai thì bạn vui lòng nhâm nhi trước với vài gói đậu phộng, đợi trong giây lát, người bán sẽ dọn cho bạn một món vừa ngon, vừa bắt mắt.

Món ăn được dọn ra với một cái lẩu cháo đang sôi nhè nhẹ đặt trên cái bếp than. Cháo đã được người bán nêm nếm sẵn, đã nấu chín, bạn chỉ cần quạt đôi chút cho cháo sôi lên rồi để râu vô là ăn được. Rau ăn với lẩu cháo cá khoai thường không nhiều, chỉ gồm vài ba loại: mồng tơi, cải xanh... và đặc biệt không thể thiếu là đầu hành. Đầu hành lá được rửa sạch sẽ, cắt gọn sát gốc. Không biết vì sao ăn với món này người bán để đầu hành rất nhiều, cả nắm tay lận, ăn hết có thể xin thêm. Có lẽ để cho ngon miệng, ra mồ hôi cho khỏe khoắn và giải cảm luôn. Kế đến là nước chấm. Nước chấm là chén nước mắm trong pha rất nhiều ớt. Chưa ăn chỉ nhìn nước chấm thôi cũng thấy phát thèm. Sau cùng và quan trọng nhất là đĩa cá khoai còn tươi rói, được làm sạch sẽ. Tùy theo số lượng người ăn và tùy theo giá tiền mà đĩa cá này nhiều, ít khác nhau.

Cháo sôi, bạn rắc ít tiêu vào, đổ cá, rau vào, vài phút sau là ăn được. Thịt cá khoai gần như hòa tan lẫn vào cháo nên bạn khó bề dùng đũa gắp, chỉ việc lấy vá múc cháo có lẫn cá cho vào chén của bạn, cho ít nước mắm vào, sau đó gắp rau, đầu hành chấm nước mắm là bắt đầu ăn.

Cứ thế vừa ăn, vừa lai rai với bạn bè, cháo mau tiêu lại vừa lót dạ cho bạn, nên nhậu với bạn bè như thế không sợ mất sức. Ăn được vài chén, uống được ít ly, mồ hôi bạn bắt đầu tươm ra, bạn cảm thấy sảng khoái vô cùng. Vừa trò chuyện với bạn bè, vừa được thưởng thức món ăn ngon những tưởng không gì thú vị bằng. Nhưng đừng uống quá nhiều mà làm mất đi cái vị của món ngon, đôi khi có những câu nói mất vui với bạn bè.
chẹp chẹp, bác giết em, đang đói meo mà đọc bài này chịu không nổi.
đọc hết cái topic này,nước miếng em hứng được 1 ca đầy bác à,thèm chết được!
Lợn lửng, thịt chua Phú Thọ

Nếu đi dọc đường 32A bạn sẽ gặp các quán ăn đặc sản: Lợn lửng... thịt chua. Đây là món ăn gốc của người Mường ở đất tổ Vua Hùng-Phú Thọ, tuy nhiên cho đến nay nó đã được cải biên, nâng cao và thi vị hóa hơn nhiều.
Con lợn lửng nói ở đây là những con lợn choai choai, thuộc giống lợn Mường thuần chủng, chân cao, bụng thon, mõm dài và nhọn, lông còng rậm có màu hung hung nâu. Loại lợn này được nói đến trong cụm thành ngữ: “Cơm đồ nhà gác, nước vác lợn thui”.

Nếu chọn được con có bộ lông đen tuyền càng ngon, lợn này được nuôi thả rông, đôi khi chúng cũng được mẹ chúng phối giống với lợn rừng hoang dã mà sinh ra chúng, lợn mẹ cắn ổ và đẻ ở những khu vườn rừng gần nơi cư trú của người Mường, khi cứng cáp chúng lon ton chạy theo đàn và cứ chiều chiều nghe tiếng mõ lại về quần tụ trong sân, dưới những nếp nhà sàn để được tranh nhau ăn chút cám xay đổ trong máng nước gạo. Chỉ có thế thôi, còn chúng ở với thiên nhiên, kiếm ăn trong thiên nhiên bằng cách tự đào bới củ rừng, rau măng, nhặt hoa quả chín rụng đủ loại để ăn mà sống, chúng chậm lớn, thịt săn, chắc nịch mà rất ít mỡ vì hàng ngày phải chạy nhảy, khi thì rượt đuổi nhau, tranh giành mồi với cầy cáo đủ loại, khi thì trốn chạy vì gặp thú dữ dồn theo. Loại lợn này 1 năm tuổi trọng lượng cũng chỉ đạt tới 25-30kg trở lại.

Lợn lửng chính là tên thương hiệu của loại lợn này từ khi nó được ghi vào danh sách thực đơn của những món ăn đặc sản trong văn hóa ẩm thực thời hiện đại.
Lợn lửng có số đo giới hạn của người Mường đo bằng một chít tay với đường kính khoảng 13-14cm và đây cũng chính là đường kính cổ họng con lợn mà người Mường gọi là “Lợn chẹn họng”. Lợn này nhồi lá thơm, quay chín thấu, da rộp bánh đa ngả màu cánh gián non, chặt thấu xương ăn với dưa chua thật tuyệt vời!

Làm thịt lợn lửng quan trọng và độc đáo nhất là cách thui, phải là thui hai lửa mới đạt yêu cầu. Sau khi chọc tiết xong người ta xối nước lạnh chà xát toàn thân con lợn thật kỹ, thật sạch. Khi lợn còn đang ướt sũng, lấy nứa tép khô đập giập, bó chặt đốt lửa quạt, dùng đầu bó đuốc dũi lần lượt, gặp lửa nóng da lợn co, da cáy tróc, lông bở và trút theo đầu đuốc nứa, đây là cách làm lông khô (lửa thứ nhất). Tiếp theo lợn được lau chùi sạch rồi để nằm úp, thui hai bên hông trước, thui bụng và sống lưng sau, lần này thui (lửa thứ 2) bằng cách vừa quạt vừa giữ than hồng cho chín vàng đều, hơi ngả màu hồng sẫm là được. Lợn thui chín xong để nguội, cạo sạch để khan không rửa nước lã. Sau đó lọc riêng xương nấu xáo măng, thịt mông, thịt vai thái ướp gia vị, bột riềng, nướng chả. Thịt vai, ba chỉ ướp gia vị, hấp chín tới cùng tim, gan, lòng dồi. Riêng dồi được chế biến theo công thức dồi chó, sau khi hấp chín người ta cuộn tròn vào ống nứa tươi, quét mật ong, húng lìu rồi nướng vàng rộp bánh đa, ăn nóng. Thịt lợn lửng được chấm với giấm, mẻ, ăn kèm với rau đắng cảy, một thứ rau rừng hấp chín tới. Mẻ khi nuôi có cho ăn xương gà và xương be lợn, lúc thật ngấu được lấy ra nghiền nhuyễn và chưng lên theo bí quyết riêng.

Riêng thịt áp mông, áp vai, khoanh bí (dưa hấu) người ta dành để làm thịt chua, loại thịt này cứ để nguyên miếng rồi nướng cho chín se các mặt cắt trên than hồng, sau đó ép bỏ nước (cam) rồi pha khổ nhỏ con bài, thái mỏng 2-3 li ướp nhạt với nước mắm cô, bột ngọt. Thính-hỗn hợp gạo tẻ 5/10 gạo nếp 2/10 ngô 2/10 đỗ tương 1/10, tất cả rang vàng chín thấu, xay nhỏ trộn đều. Ống nứa tươi từ 6-8cm cắt giữ lại một đầu mắt có chiều dài từ 15-20cm. Lá ổi bánh tẻ, rửa xối nước thật sạch, quạt thật ráo nước, lót đáy và quây xung quanh thành ống, nhồi thịt vào ống thật chặt để cách miệng ống 3cm, rắc thính phủ kín, đậy lá ổi và cài văng lại, úp các ống thịt vào khay nước lạnh có chiều sâu 2cm, để nơi thoáng mát. Sau 2-3 ngày thịt sẽ lên men và chín ngẫu. Yêu cầu thành phẩm: Thịt ráo, thơm ngon, chua ngầy ngậy có mùi đặc trưng của nem chạo. Ăn kèm lạc rang bánh đa nướng, bánh phồng tôm, sung non, chuối chát, lá mơ và các loại lộc non... Có thể gói bánh đa nem chấm tương ớt, lai rai nhậu với rượu ngô Na Hang, thật không bút nào tả xiết.



Da cá mú bông Bình Định


Ca dao, tục ngữ Bình Định về ẩm thực có câu: ''Nhất bì nhì cốt'' hay ''Nhất da cá mú bông, nhì lòng cá chẻm''. Da cá mú bông có gì mà dân gian phong đến hai cái nhất! Mời bạn về quê hương cá mú bông mà thưởng thức món ăn đặc biệt này.
Mú bông sống ở vùng nước lợ, nơi giao tiếp hai dòng nước mặn, ngọt. Con tôm, cái ốc ở vùng này ngon nổi tiếng rồi, mà mú bông chỉ xơi toàn mồi sống: tôm rằn, tôm bạc hay cua mềm, là những thứ mồi hảo hạng. Vì thế thịt cá mú bông ngon ngọt, thơm tho là điều không mấy ngạc nhiên.
Đầm Thị Nại và đầm Trà Ổ (Hà Ra, Phù Mỹ) là nơi nhiều mú bông nhất. Cá mú bông Thị Nại không to và không ngon bằng mú bông Phù Mỹ. Đã ăn mú bông Phù Mỹ rồi thì những món cá khác hầu như bị quên.
Mới nhìn con mú bông dãy trên rổ là thích mắt rồi! Thân cá đẫy đà, trơn mướt tỏa ra một sức sống đến kỳ lạ. Thân cá màu đen rêu, lỗ chỗ những đốm vàng nghệ, đôi chỗ ngả màu cam, tưởng chừng mỡ cá muốn tươm ra ngoài da. Mú cũng cắn câu nhưng phương tiện đánh bắt mú vẫn là "chồ" và lưới. Để cá được tươi, ngư dân giữ cá trong lồng, ngâm trong nước treo bên mạn thuyền. Làm thế nào, khi đem cá đến chợ nó vẫn còn sống hay ít nhất phải tươi dù là chợ xa. Người nội trợ giỏi phải chú ý đến cá tươi. Mua được cá sống thì tốt, mua cá đã chết phải biết con nào còn tươi. Người ta chỉ nhìn qua đôi mắt cá, con nào còn ánh xanh là biết ngay, khỏi phải cầm cá lên xem độ cứng mềm hoặc xem mang cá. Đó chỉ là phương pháp thông thường. Cá tươi là lúc mỡ cá chưa "chạy" cá mới ngọt, thơm. Đem cá mú về phải làm thịt ngay. Cá mú ngon từ bộ lòng đến da. Món ăn thông thường là nấu chua hoặc xào chua ngọt với cà, khế và rau mùi. Nấu cá mú không cần dầu vì cá mú quá nhiều mỡ. Mỡ cá mú sông thơm mà không tanh, không hôi gành như mú biển. Cá càng lớn càng ngon.
Cầu kỳ hơn là món hấp, là món ăn sang trọng và khoái khẩu của người phố thị. Cá hấp thì tất cả hương vị được cô đặc lại trong thịt, trong lòng cá. Cái vị đậm đà, mùi thơm thì lừng lựng. Cá mú hấp với thuốc bắc gồm: đại táo, câu kỷ, mộc nhỉ, bá hạp, hột sen và một ít bún song thằng, gia thêm ngũ vị hương. Món ăn rất hấp dẫn mà rất Tàu. Họ còn bảo rằng món này bổ tinh lực! Nhưng ngon hơn vẫn là bộ da.
Những khi được con mú lớn, ngư dân lột lớp da phơi khô, để dành khi giỗ chạp hay có khách quý mới đem dùng. Chế biến da cá mú phải qua nhiều công đoạn. Da cá rất dày có khi đến 1cm. Lột da xong họ dùng những thẻ tre cật, hai đầu vót nhọn căng rồi đem phơi. Được vài ba nắng khi da đã thật khô mới chọn nơi khô ráo để treo. Thỉnh thoảng phơi lại khỏi mốc, khi cần họ cắt một phần, đem thái nhỏ thành miếng bằng mút đũa đem rang cát, ngâm nước một lát, rửa sạch, để ráo. Da cá nở phồng như "hủ tiếu". Đỗ phộng rang vàng, rau răm thái nhỏ, tất cả trộn đều gia vị, thêm ớt, tỏi, nước mắm ngon. Mới trông đĩa "bì cá" với sắc vàng bông lốm đốm, những mảnh ớt đỏ đã đẹp mắt rồi. Động đũa vào bạn mới thấy hết cái lạ lẫm. Miếng da dai dai, thơm mà béo, nhai vài lượt là thấy vị ngọt. Miếng da mú nhai chưa nhỏ mà đã vội trôi tuột vào họng. Đúng là ngọt đến "chạy tọt xuống bụng". Bạn không giữ được cái cảm giác "ngậm nghe" đâu. Muốn tận hưởng cái ngon, bạn phải chờ đến miếng thứ hai, thứ ba. Cái hương vị đầu tiên giống như ăn lòng cá tràu (cá quả, cá lóc). Nó vừa dẻo thơm thơm mùi cá, rồi ngòn ngọt, béo béo. Nhấm một tý rượu tưởng chừng hương vị trôi đi nhưng không, cái dư vị còn đọng lại ở hầu. Thảo nào người sành ăn như cụ Tản Đà đã thẫn thờ đến không muốn ăn khi lỡ tay làm rớt cái bao tử cá tràu!
Không biết có ai ở thời ấy đã tặng cụ một miếng da cá mú chưa! Tôi tin rằng một miếng da cá mú có thể thay được một đĩa dạ dày cá tràu đó.
Xin mời bạn!
Ốc gạo, quê tôi

Đó là tên của loài ốc đặc biệt nổi tiếng của con sông Trà, Quảng Ngãi, quê tôi. Chẳng biết người dân xứ Quảng đặt cho loài ốc này cái tên ấy từ khi nào, nhưng khi đọc lên, nó gợi trong người nghe một ấn tượng đẹp về loại ốc có dáng hình vừa bé nhỏ, mảnh mai, vừa xinh xắn, gần gũi.
Vâng, đúng thế, mỗi con ốc gạo chỉ to bằng nửa đầu ngón tay út của con trẻ lên ba. Cái vỏ bao bọc bề ngoài của ốc gạo thường có màu vàng nhạt, tươi sáng như lá cây vào đầu thu, trông tròn tròn tựa như con ốc nhồi, ốc bươu thu mình đến mười lăm, hai mươi lần. Với hình thù na ná đó, không biết giữa nòi giống ốc nhồi, ốc bươu và ốc gạo trên sông Trà có mối quan hệ gần gũi, thân thuộc nào đây? Tuy vậy, về đặc điểm môi trường sống thì chúng khác nhau rõ rệt. Nếu ốc nhồi, ốc bươu sinh trưởng ở ruộng, đồng, ao, hồ, đầm nước ngọt thì ốc gạo lại sinh tồn ở sông, chủ yếu vùng nước lợ, nước chè hai, nơi giao nhau giữa nước ngọt và nước mặn, tức là cuối nguồn con sông Trà, thuộc hai nhánh cửa Sa Kì và cửa Nghĩa Hòa của huyện Sơn Tịnh và huyện Tư Nghĩa. Ở đỗi Tịnh Long, bờ bên này, Nghĩa Hà, bờ bên kia trở lên, thuộc dòng nước ngọt, vào mùa, đội quân chuyên đi nhũi ốc, don, lịch... trên dòng sông Trà thỉnh thoảng thấy có mặt đôi, ba chú ốc gạo trong mỗi mẻ xúc. Vào tháng 3, tháng 4 âm lịch, tháng cuối xuân, đầu hè này, nước Trà Giang trong xanh, lặng tờ, các loại cá, don, ốc... đổ về, thi đua nhau sinh sôi và lớn lên với tốc độ chóng mặt. Đây cũng là mùa "làm ăn" của những hộ dân sống trên đôi bờ sông, chuyên mưu sinh bằng nghề chài cá, nhũi don, ốc nói chung, ốc gạo nói riêng.
Muốn tóm được những chú ốc gạo nhỏ xíu mà quý, ngon kia, họ phải lặn xuống dưới tận đáy sông, sâu khoảng hai, ba mét nước, dầm mình một hồi lâu, dùng cào xúc đưa, nâng từng mẻ; người ở trên ghe, thuyền có nhiệm vụ chọn lọc, phân loại ra. Có ngày làm trúng mánh, mỗi người cũng kiếm được ba, bốn trăm ngàn đồng từ ốc gạo. Công việc đó thật vất vả, nhọc nhằn song hiệu quả của nó đem lại cho người làm cũng không đến nỗi nào!.
Ốc gạo cũng như các loại ốc khác đem bán ở các chợ nơi đây đều được tính bằng đơn vị lon. Vì ốc gạo thuộc hàng "siêu sao" nên giá cả bao giờ cũng đắt hơn các loại ốc khác tới, ba, bốn lần. Đắt là vậy, nhưng người đến hỏi mua thì không đếm xuể. Người bán hàng này chỉ cần ngồi trong thoáng chốc là hết sạch trơn.
Mua, xúc về, cho ốc gạo vào thau nước vo gạo, ngâm cỡ nửa hoặc một tiếng đồng hồ, chất bùn, chất bẩn ốc tự nhả ra hết. Cách nấu ốc gạo cũng đơn giản, dễ dàng như việc nấu cơm bằng lửa củi, lửa rơm ấy. Đun nồi nước thật sôi, rồi đổ ốc gạo vào đánh, trộn đều chừng 15 phút sau ốc chín vừa, vớt ra để ráo. Bắc tiếp cái sanh đã có sẵn dầu đậu phụng, cùng các loại gia vị như ớt to xắt mỏng, chút lá chanh, hàng ngò và ít muối hột sống đun sôi, cho ốc vào trộn đều, tất cả đều thấm mùi vị của dầu, mắm, tiêu ớt... Thế là xong, xúc cả ốc và nước tiết ra vào tô, bát. Còn nóng, ốc gạo bốc lên một mùi thơm thực khách đã cảm nhận được sức hút, sự quyến rũ đặc biệt từ đó. Để nguội nguội một chút, chuẩn bị sẵn một số cái gai chanh bên cạnh tô ốc gạo, dùng gai ấy mà lễ từng chú ốc gạo ra, cứ thế ăn tới, vừa ăn vừa bàn tán chuyện đời. Thịt mỗi chú ốc chỉ bé tẹo thôi, thời gian ngồi hút hết cái tô, bát lại đâu phải ngắn nhưng người nào , người nấy, từ già đến trẻ, từ nam giới tới chị em phụ nữ, ai mà chả tấm tắc khen nó béo, thơm, ngon làm sao, ai mà chả muốn nán lại ăn cho bằng hết mới vừa cái miệng, của mình. Đặc biệt giới chị em lẫn đám thanh niên khoái, nhớ món ốc gạo này đến kinh khủng. Cái ngon, thơm vừa lạ, vừa quen của loài ốc gạo trên dòng sông Trà đã khiến cho không ít người đâm "ghiền", đâm mê, do đó mỗi khi có cơ hội, nhất là trong không khí gia đình quây quần vào ban tối hoặc ngày nghỉ ngơi cuối tuần, không vợ thì chồng, không chị thì em lại "sinh chuyện" ra chợ "dinh" ốc gạo về, làm ăn cho sướng cái miệng, sướng cả nhà. Đoán biết đất Quảng có loại ốc gạo sông Trà hảo hạng, nức danh, các bạn hàng các tỉnh lân cận Quảng Nam, Bình Định tìm tới mua với giá cao hơn người trong tỉnh. Như vậy, con ốc này lại có dịp bay xa, mang theo hương vị ngon... làm ngất ngây hồn xứ người.
Dòng sông Trà, quê tôi, không chỉ đẹp, thơ mộng lấp lánh bao huyền thoại về lịch sử, văn hóa mà còn chứa đựng, ôm ấp trong nó những đặc sản, có một không hai, nào don, nào lịch, đây cá bống, đây cá thài bai và cả đây ốc gạo nữa. Tất cả để lại dư vị, khó phai mờ trong lòng mỗi người con của đất Quảng và những bè bạn gần, xa.


Măng ớt vùng cao
Không biết từ bao giờ măng ngâm ớt đã trở thành một món ăn không thể thiếu trong bữa ăn thường ngày hoặc trong các dịp lễ, tết của đồng bào các dân tộc vùng cao miền Bắc nước ta. Riêng món măng ớt của đồng bào Mông ở huyện vùng cao Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái thì có hương vị riêng khó lẫn, không giống những loại dấm ớt, hay măng ngâm ớt thường thấy ở các quán ăn mọi miền.
Măng ớt Trạm Tấu được người dân dùng trong cả năm mà muối chỉ một lần. Nhà nào cũng có vài ba can măng, mỗi can nặng khoảng 60kg.
Cây măng để ngâm ớt có dáng hình thon nhỏ bằng ngón tay trỏ, mọc thành từng bụi. Cứ đến tháng 9, khi tiết trời vào thu đông, đồng bào lại lên rừng hái măng. Người ta chọn cây măng cao khoảng 20cm, lấy phần non để muối, phần già giã nhỏ rồi hoà vào để tăng thêm mùi vị. Không giống muối cà, muối dưa, cây măng để muối không được rửa nước lã, mà chỉ bóc vỏ rồi cho ngay vào lù cở như cái bình ở miền xuôi, xóc mạnh cho hết lông để măng không bị thâm, thân trắng, nhìn thêm hấp dẫn. Ớt thì xay nhỏ, trộn một chút nước rồi đổ vào măng, ngâm với muối trong khoảng một tháng là đến lúc măng chua đều, ăn ngon nhất.
Bữa cơm hàng ngày có vị ngọt của lúa nương, vị chua giòn của măng, vị cay xé lưỡi của ớt, du khách nào đã thưởng thức, chắc hẳn sẽ không thể quên.
Đặc biệt, khi tiết trời lạnh giá, chỉ cần nuốt một miếng măng nhỏ là thấy cả cơ thể dần nóng lên, tâm trạng phấn chấn, cái ngon lây lan khắp cả nhà, cái gió rét cắt da cắt thịt của đồng bào vùng cao bỗng chốc như lùi hẳn. Những ngày lễ, tết, măng ớt được giã nhỏ để xào lẫn với thịt, trứng, thì mùi thơm ngầy ngậy của thịt và trứng hoà lẫn vào vị chua giòn của măng, làm cho món ăn vừa có phần cao sang, lại vừa dân dã.
Măng ớt trở thành món quà vừa quý giá, vừa quen thuộc mà vùng cao Trạm Tấu ban thưởng cho khách thập phương. Những người con của bản khi đi xa, các mẹ, các chị dành riêng cho họ một lọ măng ớt, như gói ghém cả hương vị tình yêu của núi rừng quê hương đi đến mọi miền Tổ Quốc.


Rượu sâu chít
Ở miền Bắc nước ta, vùng rừng núi nào cũng thấy cây chít, một loại cỏ lau mà người dưới xuôi lấy bông làm chổi, cũng có nơi gọi là chổi đót. Người Hà Nội cũng gọi như vậy.
Vùng Mường Tè (Lai Châu), cây chít chẳng những cho bông làm chổi xuất khẩu mà còn cho đồng bào miền núi một loại ấu trùng gọi là sâu chít để ăn và ngâm rượu.

Cứ vào khoảng tháng ba đến tháng tư hàng năm là mùa sinh nở của bươm bướm rừng, chúng đẻ trứng vào đọt cây chít, nở ra con ấu trùng màu trắng có chân, có khúc đầu mình giống như con sâu, thân chỉ to bằng cọng lá khoai lang, dài chừng 5-6 phân.

Người La Hủ, Hà Nhì, Si La, Thái ở Mường Tè mang gùi lên núi hái đọt cây chít về lấy sâu. Mỗi đọt tách ra chỉ bắt được một con sâu nằm gọn bên trong.

Sâu chít tẩm bột chiên vàng là món đặc sản vùng cao đầy hương vị thiên nhiên, ai cũng khát khao được nếm thử, nhưng phổ biến hơn cả là dùng sâu chít ngâm rượu. Những bản làng người Thái trắng ở gần chợ Mường Tè thường mua lại đọt cây chít của người La Hủ ở vùng cao để lấy sâu ngâm rượu bán ra thị trường.

Một chai rượu chất lượng cao thường là chai 0,65 lít ngâm khoảng hơn 50 con sâu. Chừng độ 15 ngày khi rượu chuyển sang màu vàng là uống được.

Các hàng quán ở chợ Mường Tè luôn bày la liệt những chai rượu sâu chít các cỡ cho dân nhậu địa phương và du khách mơ ước loại rượu đặc sản chỉ có ở Lai Châu với giá mỗi chai lớn chưa tới 40 ngàn đồng nên ai cũng có thể mua được. Chẳng ai nỡ bỏ qua sợ tốn tiền vì đều rất hâm mộ bởi rượu sâu chít càng ngâm lâu càng quý, rượu càng thơm càng bổ. Có thể coi là thứ rượu đãi khách trong những ngày Tết, ngày xuân của đồng bào vùng cao hiếu khách. Tất nhiên rượu được bảo quản kỹ để dành làm rượu đặc sản ngày Tết.

Ta còn được nghe kể: đồng bào dân tộc miền núi hái bông chít về bện chăn, làm đệm dùng trong ngày đông giá rét. Đó cũng là của hồi môn của các cô gái đem về nhà chồng trong ngày hôn lễ.

Đồng bào thiểu số ở Lao Kay, Yên Bái, Hòa Bình lại còn có thứ rượu quý khác, đó là rượu cây hoa đất vừa để uống vừa dùng làm thuốc chữa đau bụng, đau mình, nhức xương, bổ máu, có lợi cho phụ nữ sau khi sinh nở và cho ai vừa ốm dậy. Nhưng rượu sâu chít vẫn được coi là thứ rượu bổ quý hiếm.

Xu hướng

Bài mới








  • Chịu trách nhiệm nội dung: Trần Mạnh Hiệp
  • © 2025 Công ty Cổ phần MXH Tinh Tế
  • Địa chỉ: Số 70 Bà Huyện Thanh Quan, P. Võ Thị Sáu, Quận 3, TPHCM
  • Số điện thoại: 02822460095
  • MST: 0313255119
  • Giấy phép thiết lập MXH số 11/GP-BTTTT, Ký ngày: 08/01/2019