Bạn đang ở bên ngoài, mở điện thoại lên rồi nhận thấy máy chỉ còn 7% pin nhưng trớ trêu thay, bạn sựt nhớ là sáng nay mình ra khỏi nhà mà không mang theo đồ sạc cũng chả có pin dự phòng. Tim bắt đầu đập nhanh hơn khiến bạn cảm thấy hồi hộp và nếu trải quả tất cả những cảm giác này, bạn đang rơi vào cảm giác mà các chuyên gia gọi là “nỗi sợ hết pin”.
Nếu cảm thấy khó chịu, mồ hôi tay đổ đầm đìa khi không thể dùng điện thoại, bạn có thể đã mắc phải một dạng nghiêm trọng hơn của Nomophobia - hội chứng mà các nhà khoa học dùng để chỉ những người sợ hãi quá mức khi không được tiếp cận với điện thoại.
Kể từ năm 2014 đến nay, đã có khoảng 15 bài báo liên quan đến "nomophobia" được xuất bản, và cũng có hơn chục nghiên cứu tìm hiểu mối liên kết giữa “nomophobia” và smartphone được thực hiện kể từ năm 2016. Smartphone ngày nay dường như trở thành một phần thiết yếu của cuộc sống và điều này thôi thúc các nhà tâm lý học, tâm thần học và các chuyên gia về truyền thông bắt tay vào cuộc để xem xét liệu tình trạng này ảnh hưởng như thế nào đến sức khỏe.
Tại Đại học Missouri (Mỹ), các nhà nghiên cứu cố tình cách ly những tình nguyện viên với smartphone của họ và theo dõi phản ứng. Ở Hàn Quốc, các bác sĩ tâm thần phát triển một thước đo nhằm đánh giá mức độ nghiện điện thoại thông minh của một người. Tại Đại học bang California, các chuyên gia tâm lý yêu cầu những người tham gia xem một đoạn phim còn điện thoại thì phải đặt lên một chiếc bàn sau lưng. Sau đó, nhóm nhà khoa học nhắn tin đến cho từng chiếc điện thoại rồi tiến hành đo nhịp tim của mỗi tình nguyện viên.
Kết luận cho thấy việc không được xem các thông báo từ điện thoại khiến cho họ có những biểu hiện của “FOMO – Fear Of Missing Out”- Hội chứng sợ bị bỏ rơi.
Nếu cảm thấy khó chịu, mồ hôi tay đổ đầm đìa khi không thể dùng điện thoại, bạn có thể đã mắc phải một dạng nghiêm trọng hơn của Nomophobia - hội chứng mà các nhà khoa học dùng để chỉ những người sợ hãi quá mức khi không được tiếp cận với điện thoại.
Kể từ năm 2014 đến nay, đã có khoảng 15 bài báo liên quan đến "nomophobia" được xuất bản, và cũng có hơn chục nghiên cứu tìm hiểu mối liên kết giữa “nomophobia” và smartphone được thực hiện kể từ năm 2016. Smartphone ngày nay dường như trở thành một phần thiết yếu của cuộc sống và điều này thôi thúc các nhà tâm lý học, tâm thần học và các chuyên gia về truyền thông bắt tay vào cuộc để xem xét liệu tình trạng này ảnh hưởng như thế nào đến sức khỏe.
Tại Đại học Missouri (Mỹ), các nhà nghiên cứu cố tình cách ly những tình nguyện viên với smartphone của họ và theo dõi phản ứng. Ở Hàn Quốc, các bác sĩ tâm thần phát triển một thước đo nhằm đánh giá mức độ nghiện điện thoại thông minh của một người. Tại Đại học bang California, các chuyên gia tâm lý yêu cầu những người tham gia xem một đoạn phim còn điện thoại thì phải đặt lên một chiếc bàn sau lưng. Sau đó, nhóm nhà khoa học nhắn tin đến cho từng chiếc điện thoại rồi tiến hành đo nhịp tim của mỗi tình nguyện viên.
Kết luận cho thấy việc không được xem các thông báo từ điện thoại khiến cho họ có những biểu hiện của “FOMO – Fear Of Missing Out”- Hội chứng sợ bị bỏ rơi.
Một ứng dụng mang tên Die With Me cho phép người dùng có thời lượng pin dưới 5% đăng nhập vào các phòng chat và trò chuyện với những người đồng cảnh ngộ. Đó là nơi mà nhà phát triển app tạo ra để họ có thể cùng nhau vượt qua tâm trạng chán nản khi điện thoại sắp hết pin. “Tốt nhất là nên im lặng để tiết kiệm pin”, Scotsman Jamie Dorman khuyên một người dùng khác trong phòng chat.
Các nghiên cứu về mối tương quan giữa smartphone và đời sống bắt nguồn từ một nghiên cứu công bố năm 2008 bởi dịch vụ bưu chính Anh. Thời điểm đó, tổ chức này đang kinh doanh thẻ điện thoại cho thuê bao trả trước và họ bất ngờ trình bày một nghiên cứu cho thấy có đến 13 triệu người Anh xem việc mất điện thoại hoặc hết pin như thứ gì đó rất kinh khủng đối với tâm trạng của họ. Họ dùng thuật ngữ “nomophobia” để diễn tả cho hiện tượng này và nó cũng đã được đưa vào từ điển Merriam-Webster từ năm 2016.
Sau đó vào năm 2010, một nhóm các chuyên gia y tế ở Brazil công bố nghiên cứu của họ sau thời gian theo dõi một bệnh nhân không thể rời xa chiếc điện thoại cầm tay của mình trong suốt mười mấy năm. Nội dung bài báo cho biết về tình trạng rối loạn và sợ hãi của người này khi quá phụ thuộc vào điện thoại. Sau cùng, bệnh nhân được điều trị bằng thuốc cũng như các liệu pháp tâm lý và không còn các triệu chứng đã nêu bên trên trong suốt 4 năm.
Năm 2014, các nhà khoa học về y tế cộng đồng tại Ý bắt đầu phân tích và so sánh những triệu chứng của “nomophobia” với các hội chứng khác như musophobia (chứng sợ chuột) và brontophobia (sợ sấm sét). Sau khi có kết quả, họ quyết định thực hiện một cuộc vận động hành lang để “nomophobia” chính thức có mặt trong Hệ thống Chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần (Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders - DSM).
Trong DSM, nội dung về các chứng rối loạn lo âu dường như đã không được cập nhật trong nhiều năm qua, theo Michelle Craske, người đứng đầu bộ phận này. Theo quan điểm của bà, việc phân loại “nomophobia” thành một dạng bệnh riêng biệt là điều không cần thiết. Trái lại, Nancy Cheever - chuyên gia tâm lý đến từ Đại học bang California cho rằng cần đưa “nomophobia” vào danh sách nhằm nâng cao nhận thức và tầm quan trọng của vấn đề. Các nhà khoa học cho biết ngày càng có nhiều trường hợp mắc các chứng ám ảnh có liên quan đến điện thoại thông minh và ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống bình thường.
Tính đến thời điểm hiện tại, phương pháp đầy hứa hẹn trong việc điều trị hội chứng “nomophobia” chính là kết hợp điều trị về nhận thức lẫn can thiệp bằng dược liệu. Các chuyên gia cho rằng người bệnh nên tập thói quen giao tiếp với bạn bè hay các mối quan hệ một cách trực tiếp thay vì dùng điện thoại và hít thở sâu, thư giãn ngauy khi cảm thấy khó chịu quá mức chỉ vì bỏ quên sạc điện thoại ở nhà. Ở những trường hợp nặng, bác sĩ thậm chí cần phải dùng đến thuốc chống trầm cảm.
Quảng cáo
Nguồn: WSJ