Với sự đa dạng về mẫu mã, tầm giá và lựa chọn như ngày hôm nay, thật khó để có thể tin rằng hơn nửa thế kỷ trước, đồng hồ sản xuất bằng chất liệu thép không gỉ đã từng hiếm hơn, đắt hơn và ít người sử dụng hơn những chiếc máy thời gian bằng kim loại quý. Nhưng đó là sự thật. Những năm 60 của thế kỷ trước, những người đeo đồng hồ thép đều coi chúng là những chiếc “tool watch”, công cụ phục vụ công việc không hơn không kém. Từ những phi công với chiếc GMT, những nhà khoa học và người lái tàu với những chiếc đồng hồ chống từ, hay những người lính với chiếc Omega 30T2 giờ đã thành huyền thoại.
Cũng theo tâm lý thời thượng lúc bấy giờ, tool watch thép không gỉ là những món đồ cục mịch cỡ bự trên cổ tay, chứ chẳng thanh lịch mượt mà như những chiếc đồng hồ vàng kích thước chỉ có 32, 34mm giấu gọn gàng dưới cổ tay áo sơ mi. Chúng chỉ có một mục đích duy nhất, đó là báo giờ cho chủ nhân, và phải hoạt động hoàn hảo nhất trong mọi môi trường ngặt nghèo. Nhưng rồi đến những năm 70, mọi thứ bỗng thay đổi hoàn toàn khi thị trường luxury sport watch bùng nổ, với sự ra đời của Royal Oak (Audemars Piguet) và Nautilus (Patek Philippe) cùng nhiều cái tên khác.
Vậy tại sao mãi đến nửa cuối thế kỷ XX, mọi thứ mới thay đổi như vậy?
Cũng theo tâm lý thời thượng lúc bấy giờ, tool watch thép không gỉ là những món đồ cục mịch cỡ bự trên cổ tay, chứ chẳng thanh lịch mượt mà như những chiếc đồng hồ vàng kích thước chỉ có 32, 34mm giấu gọn gàng dưới cổ tay áo sơ mi. Chúng chỉ có một mục đích duy nhất, đó là báo giờ cho chủ nhân, và phải hoạt động hoàn hảo nhất trong mọi môi trường ngặt nghèo. Nhưng rồi đến những năm 70, mọi thứ bỗng thay đổi hoàn toàn khi thị trường luxury sport watch bùng nổ, với sự ra đời của Royal Oak (Audemars Piguet) và Nautilus (Patek Philippe) cùng nhiều cái tên khác.
Vậy tại sao mãi đến nửa cuối thế kỷ XX, mọi thứ mới thay đổi như vậy?
Hơn 4000 năm trước, con người đã biết nung chảy quặng sắt, loại bỏ bớt carbon dư thừa, và thêm thắt những nguyên tố khác để tạo ra thép. Thời ấy, Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản trở thành những bậc thầy luyện thép, tạo ra những loại nguyên liệu như Wootz (nguyên liệu để người Ả Rập làm ra thép Damascus huyền thoại) ở Nam Ấn. Đến tận bây giờ, rỉ sắt vẫn là vấn đề làm đau đầu, và khiến tính ứng dụng của sắt phần nào không được như kỳ vọng. Mãi đến thế kỷ XIX, khi Pháp, Anh và Đức tìm ra cách tạo ra thép không rỉ, còn người Mỹ thì phải đến đầu thế kỷ XX mới sản xuất được thép không rỉ số lượng lớn. Và rồi nhờ thành tựu công nghệ và vài nghìn năm nghiên cứu, loài người mới tạo ra được một loại vật liệu chống rỉ, dễ uốn và rất bền.
Quay trở lại với những chiếc tool watch bằng thép những năm 60 của thế kỷ trước. Chính vì sự hiếm hoi cũng như giá trị lịch sử của những chiếc đồng hồ được làm từ lớp vỏ thép, mà chúng luôn có giá cao hơn so với những đồng hồ bằng kim loại quý ở sàn đấu giá. Lấy hai ví dụ kinh điển. Năm 2016, một trong số 4 chiếc Patek Philippe 1518 duy nhất sản xuất từ thép năm 1944 bán được 10,7 triệu USD ở nhà đấu giá Phillips. Chỉ hai năm sau, chiếc Rolex Daytona của Paul Newman đã được một người chủ giấu mặt bỏ ra hơn 17 triệu Đô để rước về nhà.
Chục triệu Đô cho một miếng thép không gỉ với bộ máy đếm giờ bên trong? Thật ra bản thân lịch sử của hai món đồ này cũng khiến mức giá của chúng lên tới tận mây xanh. Nếu như 1518 bản thép là sản phẩm đầu tiên con người tạo ra có cả tính năng lịch vạn niên lẫn bấm giờ chronograph, chưa kể chỉ có 4 chiếc được tạo ra, thì chiếc Rolex của Paul Newman lại gắn liền với danh tiếng của tay đua, diễn viên đình đám. Bản thân chiếc Daytona Panda này cũng chính là thứ bắt đầu cho trào lưu sưu tầm Rolex cổ mà đến giờ vẫn chưa hết hot.
Bản thân các hãng lớn cũng từng làm ra đồng hồ thép nhưng nhiều bên chỉ tạo ra với mục đích thử nghiệm. Lý do thứ nhất, thép rẻ hơn vàng hay các kim loại quý khác. Lý do thứ hai, chế tác chiếc vỏ và những chi tiết bằng thép yêu cầu công cụ cứng và bền hơn nhiều so với kim loại quý. Và hệ quả là, đồng hồ thép thời kỳ đó đôi khi còn hiếm hơn cả đồng hồ vàng (!)
Như đã nói, thời ấy, đồng hồ thép ít được các hãng để tâm, vì lý do chế tác. Nó khó tạo ra những chi tiết nhỏ bằng móng tay tới mức, chi phí bỏ thêm tiền mua nguyên liệu kim loại quý còn rẻ hơn chi phí để làm đồng hồ bằng thép. Nhờ đó, các hãng có thể tăng giá sản phẩm, và giảm chi phí nhân công. Nên nhớ thời ấy chưa có những hệ thống tự động hóa. Tất cả đều được làm nên từ bàn tay con người: Đục, cắt, gọt, đánh bóng, tạo vân… Đấy mới chỉ là vỏ case. Còn viền bezel, crown chỉnh giờ, và những chi tiết cực nhỏ khác, chi phí và thời gian tăng lên gấp nhiều lần.
Quảng cáo
Và rồi, nhờ những thương hiệu “mới nổi” thời kỳ ấy như Rolex, Longines hay Omega, những kỹ thuật chế tác thép trở nên thông dụng hơn sau Thế chiến thứ II đã dần biến thép trở thành thứ vật liệu hợp lý để làm đồng hồ. Nhưng cũng phải mất thêm 3 thập kỷ trước khi những chiếc wristwatch bằng thép dần lột bỏ tấm áo xanh của người lao động, và trở thành tượng đài thời trang.
Sau Thế chiến thứ II, những phi công dân sự cũng như quân sự tìm đến những chiếc tool watch thép bền bỉ để khẳng định vị thế của bản thân. Bỗng nhiên, nó trở thành một món trang sức ai cũng phải có. Những vị hành khách trên những chuyến bay xa xỉ thời bấy giờ, đeo trên tay chiếc Oyster Air-King đời 1945 bằng thép của Rolex, vô tình biến nó trở thành xu hướng thời trang chứ không phải công cụ lao động như trước nữa, dù nó không phải kim loại quý, và cũng chỉ có mỗi ba kim chỉ giờ, phút và giây.
Năm 1954, hãng hàng không PanAm đặt mua cho những phi công của họ chiếc Rolex GMT Master. Cho đến ngày nay, GMT Master và GMT Master II vẫn là biểu tượng của làng đồng hồ thế giới. Và ngay sau đó, những phi hành gia vũ trụ, những con người được mô tả là bất khuất, không sợ hãi bất kỳ mối nguy nào đeo trên tay chiếc Speedmaster của Omega. Bỗng nhiên, chỉ một cái búng tay của lịch sử, đồng hồ thép có được những vị đại sứ hình ảnh không thể hoàn hảo hơn, và nhu cầu của thị trường cũng bắt các hãng phải tìm ra cách sản xuất đồng hồ thép với số lượng lớn để phục vụ những khách hàng biết chạy theo xu hướng.
Quảng cáo
Đúng vào cái thời điểm thiên thời địa lợi nhân hòa ấy, một nhà thiết kế tài năng xuất hiện, Gérald Genta. Những thiết kế của ông vẫn là những hình dáng bất tử cho đến ngày hôm nay. Năm 1972, Audemars Piguet tạo ra Royal Oak với sự giúp đỡ của Genta.
Năm 1975, IWC tung ra Ingenieur, và chỉ một năm sau là Nautilus của Patek Philippe. Tất cả đều là thành quả của nhà thiết kế người Thụy Sỹ. Câu chuyện phiếm, Genta nghe lỏm được những giám đốc của Patek về kế hoạch mời Genta về tạo ra sản phẩm cạnh tranh với Royal Oak trong một nhà hàng, và chỉ mất 2 phút để phác thảo hình ảnh chiếc Nautilus trên một tờ giấy ăn và một cây bút bi mượn của bồi bàn đến giờ vẫn được anh em truyền miệng lại cho nhau.
Cả ba tác phẩm ấy đều rất khác so với những tiêu chuẩn cũ của đồng hồ đeo tay tính đến thời bấy giờ. Chúng trông to lớn, hiện đại, có phần hơi viễn tưởng, và nhờ đó kích thích thế hệ trẻ với tinh thần phiêu lưu bất tận.
Dĩ nhiên một chiếc đồng hồ thể thao xa xỉ không chỉ dành cho những người hay bay lượn trên bầu trời. Những nhà thám hiểm, vận động viên thể thao, thợ lặn, hay rất nhiều những ngành nghề khác cũng được chiều chuộng. Từ Explorer, Submariner của Rolex, cho đến Seamaster của Omega, hay Autavia và sau này là Carrera của Heuer, lựa chọn là rất, rất nhiều và rất đa dạng. Ai cũng có thể đeo chúng, và chúng trở thành biểu tượng của thời kỳ tự do. Ngay cả tổng thống Ronald Reagan những năm 80 cũng bỏ qua hình tượng chiếc Day-Date vàng chóe của quá khứ để diện trên cổ tay một chiếc Datejust thép.
Giờ đây, anh em có thể sắm một chiếc đồng hồ thép với giá từ vài trăm nghìn Đồng của Seiko hay Casio, đến cả trăm triệu Đồng như Rolex Submariner hay những chiếc Grand Seiko Springdrive. Chất liệu dần được tối ưu về độ bền, chất lượng hoàn thiện. Đồng hồ thép có được chỗ đứng như ngày hôm nay, đơn giản vì nó xuất hiện đúng thời điểm, đúng những bước ngoặt của nhân loại nửa cuối thế kỷ XX.
Tham khảo Gear Patrol