Hôm thứ 3, một tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường của Hải quân Hoa Kỳ đã thử nghiệm đánh chặn thành công tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM) đang nhằm vào một vùng biển ngoài khơi quần đảo Hawaii. Thử nghiệm này nhằm chứng minh tiềm năng phòng thủ Hawaii cũng như bảo vệ bờ tây nước Mỹ trước các mối đe dọa chỉ với giải pháp đánh chặn từ mặt đất/mặt biển.
Trong thử nghiệm, một tên lửa ICBM mang đầu đạn hạt nhân giả được phóng từ khu thử nghiệm phòng thủ tên lửa đạn đạo Ronald Reagan tại Kwajalein Atoll thuộc quần đảo Marshall hướng đến vùng biển phía đông bắc Hawaii.
Khi tên lửa được phóng, các cảm biến ngoài không gian đã phát hiện ra nó và thông qua hệ thống Chỉ huy, Điều khiển, Quản lý chiến đấu và Liên lạc (C2BMC) do Lockheed Martin phát triển, dữ liệu được gởi đến khu trục hạm USS John Finn được trang bị hệ thống tác chiến Aegis Basline 9. Con tàu này sau đó phóng tên lửa đánh chặn SM-3 Block IIA. Ngay khi tên lửa đạn đạo liên lục địa nhả đầu đạn hạt nhân mô phỏng, SM-3 đã phóng ra phương tiện tiêu diệt ngoài khí quyền EKV (Exoatmospheric Kill Vehicle). EKV lao vào đầu đạn của ICBM và các camera hồng ngoại đã ghi lại được hình ảnh vụ nổ khi EKV can thiệp thành công.
Trong thử nghiệm, một tên lửa ICBM mang đầu đạn hạt nhân giả được phóng từ khu thử nghiệm phòng thủ tên lửa đạn đạo Ronald Reagan tại Kwajalein Atoll thuộc quần đảo Marshall hướng đến vùng biển phía đông bắc Hawaii.
Khi tên lửa được phóng, các cảm biến ngoài không gian đã phát hiện ra nó và thông qua hệ thống Chỉ huy, Điều khiển, Quản lý chiến đấu và Liên lạc (C2BMC) do Lockheed Martin phát triển, dữ liệu được gởi đến khu trục hạm USS John Finn được trang bị hệ thống tác chiến Aegis Basline 9. Con tàu này sau đó phóng tên lửa đánh chặn SM-3 Block IIA. Ngay khi tên lửa đạn đạo liên lục địa nhả đầu đạn hạt nhân mô phỏng, SM-3 đã phóng ra phương tiện tiêu diệt ngoài khí quyền EKV (Exoatmospheric Kill Vehicle). EKV lao vào đầu đạn của ICBM và các camera hồng ngoại đã ghi lại được hình ảnh vụ nổ khi EKV can thiệp thành công.
Vụ nổ 3:33.
Đây là thử nghiệm thứ 6 của tên lửa đánh chặn SM-3 Block IIA được triển khai từ các tàu chiến có năng lực phòng thủ của Hải quân Hoa Kỳ và đây cũng là lần đầu tiên, Hải quân bắn hạ thành công ICBM từ tàu khu trục.
Làm sao để đánh chặn tên lửa đạn đạo liên lục địa?
Đa phần tên lửa đạn đạo liên lục địa có thiết kế dưới dạng tên lửa đẩy vũ trụ, mục đích là để đưa đầu đạn vào quỹ đạo thấp của Trái Đất sau đó tái xâm nhập khí quyển và tấn công mục tiêu. Ý tưởng này có từ thời thế chiến thứ 2 với dự án Projekt Amerika của Đức Quốc Xã. Dựa trên trên chương trình tên lửa đạn đạo dẫn đường tầm xa V-2 và A4, nhà khoa học tên lửa, kỹ sư không gian lỗi lạc Wernher von Braun cùng nhóm của ông đã phát triển tên lửa đạn đạo liên lục địa đầu tiên là A9/10 với mục tiêu tấn công New York và nhiều thành phố khác tại Mỹ.
Sau chiến tranh, Mỹ đã mở chiến dịch Paperclip để đưa kỹ sư thiên tài Wernher von Braun cùng hàng trăm nhà khoa học hàng đầu của Đức về Mỹ để phát triển các loại tên lửa đạn đạo liên lục địa, tên lửa đạn đạo tầm trung và nhiều hệ thống phóng khác cho quân đội Hoa Kỳ. Wernher von Braun là kỹ sư trưởng của chương trình tên lửa hạng nặng Saturn V - thứ đã đưa tàu Apollo hạ cánh lên Mặt Trăng vào cuối thập niên 60.
Tên lửa ICBM có 3 giai đoạn chính là là tăng tốc (lấy độ cao nhanh sau khi rời bệ phóng) > giai đoạn giữa (bay theo quỹ đạo hình elip trên tầng khí quyển ở độ cao hơn 1000 km) > giai đoạn tái xâm nhập khí quyển (đầu đạn quay lại khí quyển ở độ cao cách mặt đất tầm 100 km và hướng đến mục tiêu).
Ở giai đoạn giữa, các cảm biến hồng ngoại trên các vệ tinh ngoài không gian sẽ ghi nhận tín hiệu nhiệt phát ra từ tên lửa đạn đạo. Cảnh báo tên lửa được gởi đến các radar tầm xa trên mặt đất và chúng sẽ rà quét các vùng trời để tìm mối đe dọa đang lao xuống.
Quảng cáo
Khi đầu đạn bước vào giai đoạn tái xâm nhập khí quyển thì các radar phòng thủ tên lửa sẽ theo dõi đầu đạn, vạch ra đường bay của nó và cảnh báo cho các "shooter" - những đơn vị phản ứng như tàu khu trục USS John Finn về đường bay của đầu đạn để lập phương án đánh chặn. Đơn vị phản ứng sau đó phóng một tên lửa hay phương tiện đánh chặn như EKV.
Thành tựu quan trọng của chương trình SM-3 Block IIA
Thử nghiệm thành công vừa qua đáp ứng yêu cầu của quốc hội Hoa Kỳ nhằm kiểm tra năng lực đánh chặn ICBM của SM-3 Block IIA trước khi năm 2020 kết thúc. Thử nghiệm này ban đầu được lên kế hoạch vào tháng 5 nhưng do COVID-19 nên phải lùi lại đến tháng 11.
Tom Karako - một chuyên gia về chính sách phòng thủ tên lửa tại Trung tâm nghiên cứu quốc tế và chiến lược cho hay thử nghiệm này đặt ra thách thức lớn cho hệ thống tác chiến Aegis và việc ICBM có thể bị đánh chặn bằng tên lửa như SM-3 Block IIA - nó không thay thế cho các tên lửa lớn hơn được phóng từ các silo trên mặt đất thì đây là lý do để ăn mừng.
SM-3 Block IIA là một biến thể của tên lửa đất đối không Standard (tên gọi của dòng tên lửa đối không phóng từ tàu chiến, SM-3 viết tắt của Standard Missile 3) do Raytheon phát triển với khả năng bay cao hơn và nhanh hơn để đánh chặn các loại đầu đạn ở giai đoạn giữa của quá trình bay.
SM-3 có thể được phóng từ các ống phóng thẳng đứng Mk. 41, cùng loại ống phóng của tên lửa dẫn đường Tomahawk, tên lửa chống ngầm ASROC, SM-2 và SM-6 đối không. Như vậy trên lý thuyết các loại tàu tuần dương, khu trục hạm có thể mang theo SM-3 Block IIA.
Quảng cáo
Đánh chặn thành công tên lửa ICBM đánh dấu bước tiến tích cực tiếp theo cho chương trình SM-3 sau nhiều sự cố trước đó. Năm 2018, SM-3 Block IIA đã được đem ra thử nghiệm nhưng thất bại do một thủy thủ trên tàu USS John Finn vô tình nhấn nút tự hủy trước khi tên lửa tiếp cận mục tiêu. Sai lầm này khiến Cơ quan phòng thủ tên lửa Hoa Kỳ tiêu tốn đến 130 triệu đô.
Chứng minh năng lực của Aegis
Ngoài ra, theo Karako thì thử nghiệm này cũng là một thành tựu lớn đối với chương trình Aegis. Hệ thống tác chiến dành cho tàu chiến của Hải quân Mỹ - Aegis được phát triển từ cuối những năm 60 của thế kỷ trước khi nhận ra tốc độ phản ứng của con người là không đủ trong thời đại tên lửa được bắn hàng loạt từ tàu chiến. Ngày nay Lockheed Martin là nhà thầu chính của Aegis. Nó ban đầu được phát triển dưới sự bảo trợ của RCA, sau đó là General Electric.
Aegis kết hợp nhiều loại radar độ nhạy cao với các hệ thống tên lửa phức tạp để đối phó với mối đe dọa trên không. Nó chủ yếu được phát triển để bảo vệ tàu sân bay nhưng khi Mỹ đầu tư nhiều hơn vào phòng thủ tên lửa đạn đạo, Aegis đã mở rộng năng lực để có thể bảo vệ trước các cuộc tấn công tên lửa hạt nhân.
Để đánh chặn thành công tên lửa ICBM bằng SM-3 Block IIA thì không thể không nhắc đến vai trò của radar AN/SPY-1 - hệ thống radar 3D do Lockheed Martin phát triển, được trang bị trên USS John Finn. SPY-1 cũng là thành phần cốt lõi của hệ thống tác chiến Aegis. SPY-1 dò quét bị động, điều khiển bằng máy tính, gồm 4 hệ thống ăng-ten mỗi hệ thống chứa 148 mô-đun, cho tầm bao phủ 360 độ. Độ nhạy cao và tầm quét lớn khiến SPY-1 có thể thấy được các vùng rìa không gian và phát hiện đầu đạn đang bay đến.
SPY-1 được trang bị lần đầu tiên cho USS Norton Sound năm 1973 và các biến thể sau đó được trang bị cho các lớp tàu chiến khác như Ticonderoga, Arleigh Burke của Mỹ; tàu khu trục lớp Kongo, Atago và Maya của Nhật; tàu khu trục lớp Sejong the Great của Hàn Quốc; khinh hạm lớp Alvaro de Bazan và F-105 của Tây Ban Nha; khu trục lớp Hobart của Úc và khinh hạm lớp Fridtjof Nansen của Na Uy.
Theo: DefenseNews; The Drive