Piet Mondrian, họa sĩ người Hà Lan vào thế kỷ 20, nổi tiếng với các bức tranh trừu tượng cấu thành bởi những ô vuông và chữ nhật vàng, đỏ và xanh lam. Không phải ai cũng biết rằng những bức tranh trừu tượng của ông được phát triển từ hiện thực và không hề khó hiểu. Hãy cùng truy tìm quá trình thay đổi trong tranh của Mondrian qua hành trình triết học và nghệ thuật cá nhân của ông. Họa sĩ đã tìm cách hiểu về bản chất phổ quát của nhân loại và thể hiện nó qua nghệ thuật trừu tượng.
Sau tốt nghiệp, ông tiếp xúc với phong trào Hậu Ấn tượng và tầm nhìn về những gì muốn đạt được của ông bắt đầu phát triển. Ông được khơi gợi cảm hứng bởi những cách thức mà các nghệ sĩ mong muốn diễn tả gì đó thực hơn, chẳng hạn như tăng cường sử dụng ánh sáng hay cách sử dụng màu sắc hơn là sao chép trực tiếp.
Trong quá trình làm việc theo series, Mondrian có thể đã áp dụng kĩ năng phân tích để vẽ tranh. Ông trở nên thành thạo khi hiểu về các cách mà sự trừu tượng có thể ảnh hưởng đến chất lượng cảm xúc và thẩm mỹ trong tranh của mình. Ông cũng ý thức hơn về các mô hình cơ bản, phổ quát tồn tại trong thế giới tự nhiên và cách con người diễn giải chúng như một vẻ đẹp thẩm mỹ.
Thời trẻ
Như nhiều họa sĩ trừu tượng khác, Piet Mondrian bắt đầu quá trình luyện tập của mình bằng cách học sao chép chính xác thế giới tự nhiên. Ông cũng học sao chép tranh của các bậc thầy. Khi tốt nghiệp Học viện Nghệ thuật Hoàng gia Amsterdam, ông đã trở thành chuyên gia về kĩ thuật vẽ và phát triển các kĩ năng phân tích cần thiết dể sao chép một cách hoàn hảo các khung cảnh đời thực.Sau tốt nghiệp, ông tiếp xúc với phong trào Hậu Ấn tượng và tầm nhìn về những gì muốn đạt được của ông bắt đầu phát triển. Ông được khơi gợi cảm hứng bởi những cách thức mà các nghệ sĩ mong muốn diễn tả gì đó thực hơn, chẳng hạn như tăng cường sử dụng ánh sáng hay cách sử dụng màu sắc hơn là sao chép trực tiếp.
Suy ngẫm về những điều thiết yếu
Để bắt đầu, Mondrian loại bỏ nhu cầu vẽ bằng màu sắc thực tế và từ bỏ nhu cầu sao chép một cách hoàn hảo. Ông có xu hướng vẽ theo series, cùng một hình ảnh nhưng theo nhiều cách khác nhau.Trong quá trình làm việc theo series, Mondrian có thể đã áp dụng kĩ năng phân tích để vẽ tranh. Ông trở nên thành thạo khi hiểu về các cách mà sự trừu tượng có thể ảnh hưởng đến chất lượng cảm xúc và thẩm mỹ trong tranh của mình. Ông cũng ý thức hơn về các mô hình cơ bản, phổ quát tồn tại trong thế giới tự nhiên và cách con người diễn giải chúng như một vẻ đẹp thẩm mỹ.
Tinh thần và nơi chốn
Mondrian sau này trở thành thành viên của Hội Thuyết Thần Trí, tìm cách kết nối và hiểu được trí tuệ tâm linh cổ xưa của vũ trụ. Mondrian tin rằng nghệ thuật được kết nối trực tiếp với những câu hỏi cao hơn của cuộc sống và thông qua nghệ thuật, bản chất hài hòa của sự tồn tại có thể được truyền đạt. Đây là yếu tố đã ảnh hưởng tới cách Mondrian điều chỉnh cách tiếp cận của mình, để trở nên đơn giản hơn, đưa mọi thứ trở về bản chất cơ bản của chúng. Điều này thể hiện trong nghệ thuật của ông theo nhiều cách khác nhau, chẳng hạn như hình thức nhẹ nhàng hơn, sử dụng màu sắc thuần túy hơn.Chúng ta có thể thấy điều này rõ ràng khi xem những bức tranh ông vẽ cây táo, từ một cây táo chi tiết và ngày càng giản lược (3 ảnh bên dưới). Từ hiện thực tới trừu tượng.
Piet Mondrian - Evening: Red Tree, 1908-1910. 99 x 70cm.
Piet Mondrian - The Grey Tree, 1911. Sơn dầu trên toan. 78.50 cm × 107.5 cm
Piet Mondrian -The Flowering Apple Tree, 1912
Năm 1912 là bước ngoặt đối với Mondrian, khi ông chuyển tới Paris và ảnh hưởng bởi những ý tưởng của Chủ nghĩa Lập thể Phân tích. Cách xử lý bề mặt và mặt phẳng cũng như cách chủ nghĩa này giới hạn bảng màu đã khuyến khích Mondrian hoàn toàn đầu tư việc vẽ của mình vào tranh trừu tượng.
Hồi hương
Năm 1914, Mondrian về thăm nhà nhưng do Chiến tranh thế giới I đã giữ ông ở lại Hà Lan trong 5 năm tiếp theo. Ở quê nhà, nghệ sĩ Bart van der Leck đã thuyết phục Mondrian rằng việc sử dụng màu sắc của ông vẫn mang tính đại diện và khuyên ông nên hướng đến những màu cơ bản, thuần khiết.Quảng cáo
Một nghệ sĩ khác là Theo van Doesburg, đã ảnh hưởng Mondrian trong cách ông làm phẳng hình ảnh để loại bỏ khối lượng và tất cả mọi thứ trừ đường nét và màu sắc.
Piet Mondrian, Ocean 5, 1914, than và bột màu trên giấy, 87.6 x 120.3 cm
Phát triển hướng tới sự hài hòa
Mondrian đã phát triển thành công phong cách cá nhân của mình. Họ gọi cách tiếp cận này là De Stijl, tiếng Hà Lan cho Phong cách. Nó đã đạt được thành công trong sự trừu tượng thuần túy, không có tất cả các tham chiếu tượng hình. Mondrian thậm chí còn loại bỏ việc sử dụng các tiêu đề đặt tên tranh của mình.Trong các tác phẩm De Stijl đời đầu của mình, Mondrian sử dụng các trường màu với nhiều sắc độ, rồi các đường ngang, dọc và chéo. Mặc dù ông đã nhanh chóng loại bỏ các đường chéo và chỉ sử dụng các đường ngang, dọc mà ông coi là đại diện cho các lực cân bằng của tự nhiên, chẳng hạn như hành động và không hành động, hoặc chuyển động và tĩnh lặng.
Tuy nhiên, Van Doesburg vẫn sử dụng các đường chéo, coi cách tiếp cận của Mondrian quá hạn chế và mang tính giáo điều. Sự khác biệt nhỏ đã đã khiến hai nghệ sĩ kết thúc mối quan hệ của họ và dẫn đến sự kết thúc của De Stijl.
Quảng cáo
Piet Mondrian, Composition with Red, Blue, and Yellow, 1930, sơn dầu trên toan, 46 x 46 cm
Thể hiện cái chung
Sau thời gian trên, hai nghệ sĩ đều đổi tên cách diễn giải của họ về De Stijl. Van Doesburg gọi phong cách mới của mình là Elementarism (tạm dịch: Chủ nghĩa sơ bộ) còn Mondrian gọi phong cách của ông là Neo-Plasticism. Ngoài việc chỉ sử dụng các đường ngang, dọc, neo-Plasticism chỉ bao gồm các màu cơ bản là đỏ, xanh lam và vàng cùng các giá trị cơ bản là đen, trắng và xám. Mondrian tin rằng phong cách trừu tượng hoàn toàn của mình miêu tả theo cách đơn giản và trực tiếp nhất những gì thiết yếu, thực tế và phổ quát. Ông cho rằng việc giảm thiểu là điều cần thiết để con người đạt được trạng thái tồn tại cao nhất. Điều này giống như việc người nghệ sĩ loại bỏ đi cái tôi trong tác phẩm của mfnh để tất cả những người xem tranh có thể kết nối với nhau một cách sâu sắc.Piet Mondrian, Broadway Boogie-Woogie, 1942 - một trong những bức tranh họa sĩ vẽ trước khi mất. Khoảng thời gian này ông sống ở New York và đối với ông, New York là hình ảnh thu nhỏ của thành phố hiện đại. Ông bị lay động bởi năng lượng của nhạc jazz và nhịp sống dường như vô tận di chuyển qua các con phố. Nó không giống như bất kì thành phố nào ông từng sống, Paris hay London.
Tham khảo ideelart