Có thể chúng ta hay nghĩ rằng thiên tài thường chỉ tập trung vào lĩnh vực nghiên cứu của họ và không quan tâm gì khác ngoài đó. Nhưng thực tế không hề như vậy và một số bộ óc vĩ đại nhất mọi thời đại có nhiều sở thích. Sau đây là những gì năm nhà tư tưởng lớn của lịch sử đã làm trong thời gian rảnh rỗi của họ.
Ada Lovelace thích đánh bạc, thậm chí hơi "quá đà
Nữ bá tước Ada Lovelace là một nhà văn và nhà toán học người Anh đầu thế kỷ 19. Là con gái của Lord Byron, mẹ của bà đã khuyến khích bà học khoa học và toán với mục tiêu biến bà trở thành người nổi tiếng và liều lĩnh như người cha của mình. Bà được phong làm Nữ bá tước Lovelace vào năm 1838 khi chồng bà, Lord King, trở thành Bá tước Lovelace.
Trong công việc của mình với Charles Babbage, bà đã viết thuật toán đầu tiên để sử dụng trên máy tính cơ học mà ông đề xuất, Cỗ máy Phân tích. Tuy nhiên, bà là người đầu tiên hiểu rằng các tính toán được thực hiện trên máy có thể vượt xa tính toán thuần túy và sẽ đại diện cho hầu hết mọi thứ. Công việc này và tầm nhìn của bà đã khiến nhiều người cho rằng bà là lập trình viên máy tính đầu tiên.
Bất chấp mọi nỗ lưc của người mẹ, Ada lại giống cha - một người đàn ông “nghiện” theo nhiều nghĩa khác nhau. Trong số này, bà thừa hưởng sở thích cờ bạc của ông. Trong suốt những năm cuối thập kỉ 1840, bà đã thua hơn 3.000 bảng Anh, tương đương 280.000 bảng Anh giá trị tiền ngày nay, cho cá cược đua ngựa. Năm 1851, bà đã cố gắng sử dụng khả năng toán học thiên bẩm của mình để nghĩ ra một thuật toán nhằm giúp các vụ cá cược thành công. Không may là, giống như tất cả các hệ thống tương tự, nó không có tác dụng và bà tiếp tục mất các khoản tiền lớn.
Ada Lovelace thích đánh bạc, thậm chí hơi "quá đà
Nữ bá tước Ada Lovelace là một nhà văn và nhà toán học người Anh đầu thế kỷ 19. Là con gái của Lord Byron, mẹ của bà đã khuyến khích bà học khoa học và toán với mục tiêu biến bà trở thành người nổi tiếng và liều lĩnh như người cha của mình. Bà được phong làm Nữ bá tước Lovelace vào năm 1838 khi chồng bà, Lord King, trở thành Bá tước Lovelace.
Trong công việc của mình với Charles Babbage, bà đã viết thuật toán đầu tiên để sử dụng trên máy tính cơ học mà ông đề xuất, Cỗ máy Phân tích. Tuy nhiên, bà là người đầu tiên hiểu rằng các tính toán được thực hiện trên máy có thể vượt xa tính toán thuần túy và sẽ đại diện cho hầu hết mọi thứ. Công việc này và tầm nhìn của bà đã khiến nhiều người cho rằng bà là lập trình viên máy tính đầu tiên.
Bất chấp mọi nỗ lưc của người mẹ, Ada lại giống cha - một người đàn ông “nghiện” theo nhiều nghĩa khác nhau. Trong số này, bà thừa hưởng sở thích cờ bạc của ông. Trong suốt những năm cuối thập kỉ 1840, bà đã thua hơn 3.000 bảng Anh, tương đương 280.000 bảng Anh giá trị tiền ngày nay, cho cá cược đua ngựa. Năm 1851, bà đã cố gắng sử dụng khả năng toán học thiên bẩm của mình để nghĩ ra một thuật toán nhằm giúp các vụ cá cược thành công. Không may là, giống như tất cả các hệ thống tương tự, nó không có tác dụng và bà tiếp tục mất các khoản tiền lớn.
Albert Einstein là một nhạc công lành nghề
Albert Eistein là nhà vật lý người Mỹ gốc Đức nổi tiếng với thuyết tương đối và những đóng góp cho cơ học lượng tử. Năm 1905, ông đã ra mắt bốn bài nghiên cứu xuất sắc giải thích chuyển động Brown, hiệu ứng quang điện, thuyết tương đối hẹp và sự tương đương khối lượng-năng lượng.
Eistein đã tập chơi violin từ nhỏ. Mẹ của ông là một người chơi piano tài năng, đã giới thiệu ông tới với violin ở tuổi lên năm với hi vọng sẽ giúp ông gắn bó hơn với văn hóa Đức. Mặc dù lúc đầu ông chỉ coi đây là việc vặt nhưng tới năm 13 tuổi, khi biết về Mozart, ông đã trở nên yêu nhạc cụ này. Ngay cả khi mới chỉ là một thiếu niên, tài năng của ông đã sớm được công nhận.
Einstein chưa bao giờ nghiêm túc với việc trở thành một nhạc công chuyên nghiệp. Tuy nhiên, ông thực sự đã suy nghĩ điều này sẽ trở thành sự thật nếu ông không làm khoa học, và ông cũng đã chơi nhạc với những người hành nghề chuyên nghiệp khi có dịp, trong đó có Kurt Appelbaum. Ông chủ yếu tự học, một số bức ảnh cho thấy ông có phong độ kém. Mặc dù vậy, nhiều người chơi cùng ông đã công nhận rằng ông là một nhạc công khá.
Mặc dù hiếm khi biểu diễn trước công chúng, ông không bao giờ đi du lịch mà thiếu cây đàn violin. Cuối đời, ông ngồi với Bộ tứ Zoellner và chơi với các thành viên của Bộ tứ Julliard. Cả hai nhóm đều ấn tượng trước khả năng của ông. Các tối thứ Tư tại nhà Einstein ở Princeton được dành riêng cho âm nhạc thính phòng.
Issac Newton đi tìm hòn đá phù thủy
Issac Newton là một nhà vật lý và toán học người Anh nổi tiếng với việc xây dựng các định luật về chuyển động và định luật hấp dẫn, phát minh ra kính thiên văn phản xạ, lăng kính phân tách ánh sáng trắng thành quang phổ và nghĩ ra phép tính. Khó có thể nói quá về những ảnh hưởng của ông đối với khoa học, ngay cả khi các lý thuyết hiện đại đã vượt ra ngoài những ý tưởng tiên phong của ông.
Trong số mười triệu từ được viết ra, có một triệu từ ông viết liên quan đến thuật giả kim. Công trình này chưa từng được công bố và một số lượng đáng kể trong đó có thể bị coi là dị giáo hoặc bất hợp pháp vào thời điểm đó. Phần lớn trong số đó bao gồm các bản sao của những bản hiện có với các chú thích mới. Một câu chuyện phổ biến nhưng đầy nghi hoặc kể rằng chú chó của Newton, Diamond, đã gây ra một đám cháy nhỏ trong phòng thí nghiệm, thiêu rụi tất cả các nghiên cứu trong 20 năm về thuật giả kim nay đã bị thất lạc trong lịch sử.
Trong khi có một số cuộc thảo luận về việc chính xác Newton đã làm gì, một số nhà sử học khoa học cho rằng thuật giả kim của ông gần với tiền thân của hóa học hiện đại hơn là ma thuật. Rất nhiều ghi chép của ông cho thấy ông đang tìm kiếm hòn đá phù thủy nổi tiếng, có thể biến các kim loại khác thành vàng. Ông cũng có thể đã quan tâm đến phương thuốc kéo dài sự sống (Elixir of Life).
Quảng cáo
Nhiều giấy tờ về thuật giả kim của ông đã được bán đấu giá. Phần lớn trong số này đã rơi vào tay nhà kinh tế học John Maynard Keynes, người sưu tập các bài nghiên cứu của Newton.
John Maynard Keynes sưu tập tranh và thúc đẩy, quảng bá nghệ thuật
Barron Keynes là một nhà kinh tế học người Anh. Ông được coi là nhà kinh tế học có ảnh hưởng nhất của thế kỷ 20. Những ý tưởng của ông đã châm ngòi cho cuộc Cách mạng Keynes trong tư tưởng kinh tế và được ghi nhận là đã chỉ ra lối thoát cho cuộc Đại Khủng hoảng (the Great Depression) và đưa ra các cấu trúc để xây dựng nên nền tảng phát triển sau chiến tranh. Ngày nay, những ý tưởng của ông đã được thay đổi đôi chút nhưng vẫn là xu hướng chủ đạo của kinh tế học.
Trong khi Keynes khá giàu có - ông đã hai lần thu về cả gia tài trong thị trường chứng khoán - thì ông lại nghĩ rằng đạt được sự giàu có vì mục đích giàu có là dấu hiệu của bệnh tâm thần. Khi tìm cách sử dụng tài sản của mình cho mục đích tốt đẹp, ông đã xây dựng cho mình một bộ sưu tập nghệ thuật khá lớn, bao gồm 135 tác phẩm mà ông đã tặng cho Cambridge. Bộ sưu tập bao gồm cả các tác phẩm của Picasso, Seurat và Cezanne.
Ngoài việc sưu tầm, ông còn hỗ trợ nhiều nhà hát, nhà hát opera và các vũ đoàn. Ông cũng là thành viên của nhóm Bloomsbury, một tập hợp các nghệ sĩ và trí thức người Anh, những người đồng thuận về tầm quan trọng của nghệ thuật và đã tham gia vào nhiều thử nghiệm thẩm mỹ táo bạo. Mối quan hệ của ông với những nghệ sĩ này có thể là lý do tại sao bộ sưu tập của ông có nguồn gốc tốt như vậy.
Alan Turing có thể đuổi kịp các vận động viên marathon Olympia
Alan Turing là một nhà toán học, nhà khoa học máy tính, nhà sinh học lý thuyết, nhà triết học và nhà phân tích mật mã người Anh. Ông nổi tiếng với việc bẻ khóa mã Enigma của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai và về triết lý của trí tuệ nhân tạo, đặc biệt là “Phép thử Turing”. Ngoài công việc của mình với máy tính, ông còn là người đặt nền móng cho lý thuyết phản ứng-khuếch tán của sự phát triển cá thể trong sinh học.
Quảng cáo
Khi rảnh rỗi, Turing thích chạy bộ. Không giống như nhiều vận động viên lớn, Turing chỉ bắt đầu chạy khi đã ở độ tuổi 30. Tuy nhiên, ông đã bù đắp khoảng thời gian đã mất bằng sự cống hiến của mình.
Đôi khi ông chạy 40 dặm giữa Bletchley Park và London để đến các cuộc họp. Tốc độ của ông nhanh như những vận động viên chạy nhanh nhất thế giới. Ông đã không thành công khi thử sức với Thế vận hội Olympic cho đội Anh năm 1948, thời gian chạy ông đạt được là 2 giờ 46 phút (Thời gian này chỉ chậm hơn thời gian giành huy chương bạc của Tom Richards 11 phút.). Turing nói với bạn bè rằng chạy bộ là một hình thức giảm căng thẳng, ông giải thích: “Tôi có một công việc căng thẳng đến mức cách duy nhất tôi có thể bỏ nó ra khỏi đầu là chạy hết mình; đó là cách duy nhất tôi có được chút giải phóng.”
Theo BigThink