Không phải Mỹ mà Jamaica, Nam Phi hoặc một số quốc gia nhỏ khác mới là nơi đầu tiên mà các hãng công nghệ lớn thường chọn để nộp hồ sơ đăng ký thương hiệu cho sản phẩm mới trước khi chính thức ra mắt. Nguyên nhân không gì khác là nhằm đảm bảo tính bí mật bởi toàn bộ cơ sở dữ liệu bằng sáng chế đều không được đưa lên mạng. Điển hình cách làm này đã được Apple áp dụng đối với thương hiệu Siri, Apple Watch, macOS và hàng trăm sản phẩm khác.
Được biết Văn phòng sở hữu trí tuệ quốc gia Jamaica cho phép khách tìm kiếm các hồ sơ khi họ đích thân tới văn phòng ở Kingston. Tại đây, người ta có thể yêu cầu văn phòng tìm kiếm hồ sơ cho họ nhưng người đó cần phải có địa chỉ ở Jamaica để nhận kết quả và toàn bộ quá trình có thể mất khoảng 3 tuần. Tuy nhiên, nếu cần thiết thì người ta vẫn có thể ủy quyền cho một luật sư tại Jamaica để tìm kiếm hộ. Và cho tới hiện tại họ vẫn không có kế hoạch đưa cơ sở dữ liệu lên mạng.
Sở hữu mà họ có thể làm được điều này là do khai thác được một điều khoản trong luật thương hiệu ở Mỹ, cho phép quyền tuyên bố sở hữu thương hiệu một cách bí mật. Theo điều khoản này, một khi hồ sơ sở hữu thương hiệu được nộp tại văn phòng sở hữu trí tuệ thuộc một quốc gia ngoài Mỹ, công ty có 6 tháng để tiếp tục nộp hồ sơ cho cơ quan bằng sáng chế và sở hữu trí tuệ Mỹ (USPTO) để bổ sung.
Những quốc gia mà các hãng lớn thường nộp bằng sở hữu thương hiệu trước Mỹ
Không chỉ có Apple mà Google, Amazon và Microsoft cũng thường xuyên nộp hồ sơ đăng ký thương hiệu tại những quốc gia khác thay vì Mỹ trước khi chính thức cho ra mắt. Các quốc gia mà họ chọn bao gồm cả Jamaica, Tonga, Iceland, Nam Phi hoặc Trinidad và Tobago. Đây đều là những nơi không hề có cơ sở dữ liệu trực tuyến để dễ tiếp cận tới các quyền sở hữu thương hiệu, từ đó giúp thông tin được đảm bảo bí mật lâu hơn. Tuy nhiên, với số liệu thống kê từ USPTO thì Apple là công ty nộp hồ sơ sở hữu thương hiệu ở nước ngoài nhiều nhất với hơn 343 bằng, 275 trong số đó là tại Jamaica. Đứng kế tiếp là Google với 93 bằng và thứ 3 là Microsoft.
Được biết Văn phòng sở hữu trí tuệ quốc gia Jamaica cho phép khách tìm kiếm các hồ sơ khi họ đích thân tới văn phòng ở Kingston. Tại đây, người ta có thể yêu cầu văn phòng tìm kiếm hồ sơ cho họ nhưng người đó cần phải có địa chỉ ở Jamaica để nhận kết quả và toàn bộ quá trình có thể mất khoảng 3 tuần. Tuy nhiên, nếu cần thiết thì người ta vẫn có thể ủy quyền cho một luật sư tại Jamaica để tìm kiếm hộ. Và cho tới hiện tại họ vẫn không có kế hoạch đưa cơ sở dữ liệu lên mạng.
Sở hữu mà họ có thể làm được điều này là do khai thác được một điều khoản trong luật thương hiệu ở Mỹ, cho phép quyền tuyên bố sở hữu thương hiệu một cách bí mật. Theo điều khoản này, một khi hồ sơ sở hữu thương hiệu được nộp tại văn phòng sở hữu trí tuệ thuộc một quốc gia ngoài Mỹ, công ty có 6 tháng để tiếp tục nộp hồ sơ cho cơ quan bằng sáng chế và sở hữu trí tuệ Mỹ (USPTO) để bổ sung.
Những quốc gia mà các hãng lớn thường nộp bằng sở hữu thương hiệu trước Mỹ
Không chỉ có Apple mà Google, Amazon và Microsoft cũng thường xuyên nộp hồ sơ đăng ký thương hiệu tại những quốc gia khác thay vì Mỹ trước khi chính thức cho ra mắt. Các quốc gia mà họ chọn bao gồm cả Jamaica, Tonga, Iceland, Nam Phi hoặc Trinidad và Tobago. Đây đều là những nơi không hề có cơ sở dữ liệu trực tuyến để dễ tiếp cận tới các quyền sở hữu thương hiệu, từ đó giúp thông tin được đảm bảo bí mật lâu hơn. Tuy nhiên, với số liệu thống kê từ USPTO thì Apple là công ty nộp hồ sơ sở hữu thương hiệu ở nước ngoài nhiều nhất với hơn 343 bằng, 275 trong số đó là tại Jamaica. Đứng kế tiếp là Google với 93 bằng và thứ 3 là Microsoft.
Tham khảo Quart