Hệ thống chống bó cứng phanh (Anti-lock Braking System - ABS) là một trang bị an toàn trên các phương tiện hoạt động trên mặt đất, gồm có ô tô, mô tô, xe tải, và xe buýt. ABS hoạt động bằng cách ngăn bánh xe bị khóa khi phanh, do đó duy trì được độ bám với mặt đường và cho phép người lái kiểm soát chiếc xe của mình tốt hơn. Trong những năm gần đây, một số dòng xe máy bán ra ở Việt Nam đã được trang bị ABS (và với mức giá cao hơn so với phiên bản không ABS), tuy nhiên vẫn còn nhiều dòng xe, đặc biệt là xe phân khối nhỏ, vẫn chưa được trang bị hệ thống an toàn này. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh ABS làm giảm đáng kể số tai nạn dẫn đến thương tật và tử vong. Lợi ích của ABS là không cần bàn cãi trong việc điều khiển những chiếc mô tô xe máy hằng ngày. Qua quan sát của mình, nhiều vụ tai nạn và thương vong hoàn toàn tránh được nếu xe máy có ABS. Trong bài này, mình muốn mang đến cho anh em một cái nhìn tổng quan về hiện trạng giao thông xe hai bánh ở Đông Nam Á, nơi có những quốc gia tương đồng với Việt Nam về cơ sở hạ tầng đường sá cũng như thói quen sử dụng xe hai bánh, các yếu tố rủi ro cho người chạy xe hai bánh, cũng như những phân tích tại sao ABS cần bắt buộc được trang bị trên những chiếc xe hai bánh từ góc nhìn kinh tế, xã hội. Bài viết được chia làm hai phần, với tiêu đề là chung là “ABS giúp bảo vệ tính mạng người đi xe hai bánh”.
Các nước thu nhập thấp và trung bình có tỷ lệ tử vong cao gấp ba lần so với các nước thu nhập cao. Hơn nữa, hầu hết các nước có thu nhập thấp và trung bình đều có tỷ lệ tử vong do giao thông đường bộ tăng lên, trong khi hầu hết các nước có thu nhập cao đã ổn định và giảm tỷ lệ tử vong do giao thông đường bộ.
Theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tại Khu vực Đông Nam Á (South-East Asia - SEA), 396.824 người đã thiệt mạng trong năm 2016, và tử vong do giao thông đường bộ liên tục tăng kể từ năm 2007. Khu vực Đông Nam Á có 8,5% dân số toàn cầu nhưng chiếm tới 29,4% số ca tử vong do tai nạn giao thông toàn cầu. Số liệu thống kê năm 2019 của WHO cho thấy, Việt Nam có tỷ lệ người chết do tai nạn giao thông là 30,5 trên 100.000 dân, xếp thứ hai ở khu vực Đông Nam Á, sau Thái Lan với tỷ lệ tử vong 32,7 trên 100.000 dân.
Mô tô xe máy (motorcycles): Phương tiện gây tử vong số một trên đường ở Đông Nam Á
Tai nạn giao thông đường bộ làm tử vong hàng triệu người trẻ tuổi
Theo Báo cáo Hiện trạng Toàn cầu của WHO về An toàn Đường bộ 2018, trên toàn cầu có 1,35 triệu sinh mạng đã ra đi trong năm 2016 do chấn thương liên quan đến giao thông đường bộ. Tai nạn giao thông đường bộ là nguyên nhân đứng hàng thứ tám trong tổng số ca tử vong trên toàn cầu với tỷ lệ tử vong là 18,2 trên 100.000 dân và là nguyên nhân số một gây tử vong cho trẻ em và thanh niên trong độ tuổi 5–29. Các ca tử vong và thương tích do tai nạn giao thông đường bộ phân bố không đồng đều trên toàn thế giới, với 93% số ca tử vong xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình, chiếm 60% số phương tiện giao thông trên thế giới.Các nước thu nhập thấp và trung bình có tỷ lệ tử vong cao gấp ba lần so với các nước thu nhập cao. Hơn nữa, hầu hết các nước có thu nhập thấp và trung bình đều có tỷ lệ tử vong do giao thông đường bộ tăng lên, trong khi hầu hết các nước có thu nhập cao đã ổn định và giảm tỷ lệ tử vong do giao thông đường bộ.
Theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tại Khu vực Đông Nam Á (South-East Asia - SEA), 396.824 người đã thiệt mạng trong năm 2016, và tử vong do giao thông đường bộ liên tục tăng kể từ năm 2007. Khu vực Đông Nam Á có 8,5% dân số toàn cầu nhưng chiếm tới 29,4% số ca tử vong do tai nạn giao thông toàn cầu. Số liệu thống kê năm 2019 của WHO cho thấy, Việt Nam có tỷ lệ người chết do tai nạn giao thông là 30,5 trên 100.000 dân, xếp thứ hai ở khu vực Đông Nam Á, sau Thái Lan với tỷ lệ tử vong 32,7 trên 100.000 dân.
An toàn đường bộ: yếu tố cần thiết cho phát triển kinh tế xã hội
An toàn đường bộ đã được công nhận là thành tố cốt lõi của Chương trình nghị sự phát triển bền vững (Sustainable Development Agenda) với hai mục tiêu liên quan đến nó. Các vụ va chạm giao thông đường bộ gây ra thiệt hại lớn cho xã hội; tác động đến thiệt hại tài sản và chi phí sức khỏe cộng đồng, và ảnh hưởng đến năng suất của xã hội. Điều này càng đặc biệt vì số lượng nạn nhân cao nhất là thanh niên, lực lượng lao động chính. Thương tật giao thông đường bộ khiến các quốc gia thiệt hại từ 3% đến 5% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của họ, bao gồm chi phí nằm viện, chăm sóc dài hạn, thiệt hại vật chất, cảnh sát và dịch vụ cứu hộ, v.v.Thương tích và tử vong do giao thông đường bộ khiến các gia đình không còn người trụ cột vì mất việc làm, năng suất và tàn tật. Lấy một quốc gia tương đồng Việt Nam về điều kiện đường sá và hiện trạng giao thông làm ví dụ. Dựa trên một nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Phát triển Thái Lan, thiệt hại do tai nạn giao thông đường bộ, trong giai đoạn 2011-2013, là 545 tỷ Baht (~ 15,5 tỷ đô-la Mỹ) mỗi năm hoặc tương đương 6% GDP của nước này. Một nghiên cứu khác dự báo rằng Thái Lan có thể tăng 22% GDP vào năm 2038 (từ mức cơ sở năm 2014) nếu nước này có thể đạt được mục tiêu phát triển bền vững là giảm một nửa số ca tử vong do giao thông đường bộ trong 24 năm tới. Do đó, đầu tư cho an toàn giao thông đường bộ là một cách hữu hiệu để phát triển kinh tế xã hội bền vững.
Khu vực Đông Nam Á: tâm chấn toàn cầu về tử vong do xe máy
Hơn một nửa số ca tử vong trên toàn cầu là ở những người tham gia giao thông dễ bị tổn thương, bao gồm người đi bộ, đi xe đạp và người sử dụng xe hai và ba bánh (powered two- and three-wheelers - PTW). Trên toàn cầu, Đông Nam Á có tỷ lệ tử vong cao nhất trong số người sử dụng xe hai và ba bánh, ở mức 43%. Ở nước ta, tỷ lệ tử vong ở nhóm này cao tới 85%, gần gấp ba tỷ lệ toàn cầu (28%). Ở các nước khác trong khu vực Đông Nam Á, tỷ lệ sử dụng xe hai bánh và ba bánh trong các ca tử vong do giao thông đường bộ cũng cao đáng báo động: ở Thái Lan là 74,4%, Indonesia 73,6%, Myanmar 64,8%. Ở khu vực Đông Nam Á, tử vong [khi điều khiển xe hai và ba bánh] ở độ tuổi thanh niên chiếm đa số. Tại Thái Lan, những thanh niên 15–34 tuổi này chiếm hơn 60% tổng số ca tử vong liên quan đến xe hai bánh và xe ba bánh vào năm 2016.Phân bố tử vong theo phương tiện sử dụng trên đường bộ theo khu vực: Ở Đông Nam Á, xe hai bánh và ba bánh chiếm tới 43% số ca tử vong, cao nhất trên thế giới.
Theo Báo cáo Hiện trạng Toàn cầu của WHO về An toàn Đường bộ (2018)
Tử vong đường bộ theo các loại xe sử dụng ở Thái Lan: Xe hai và ba bánh chiếm gần ¾.
Quảng cáo
Việt Nam không có số liệu nhưng nếu lấy Thái Lan làm thước đo thì con số tử vong do xe hai và ba bánh ở Việt Nam chắc chắn cao hơn Thái Lan.
Xe máy động cơ nhỏ: mối quan ngại chính cho an toàn đường bộ ở Đông Nam Á
Các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình chiếm phần lớn số xe máy toàn cầu. Xe mô tô hai và ba bánh chiếm 74,5% tổng số phương tiện được đăng ký ở Đông Nam Á vào năm 2013, theo WHO. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế, Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương là thị trường chính, với tốc độ tăng trưởng liên tục, đối với các nhà sản xuất xe máy. Tại Việt Nam, xe mô tô hai hoặc ba bánh chiếm 95% tổng số phương tiện được đăng ký và khoảng 7.500 xe máy mới được đăng ký mỗi ngày. Ở Việt Nam chúng ta cũng như nhiều nước tương đồng về cơ sở hạ tầng và quy hoạch đô thị, xe máy đã trở nên phổ biến trong những thập kỷ gần đây do khả năng di chuyển hợp lý ở những khu vực hạn chế giao thông công cộng và ở các thành phố tắc nghẽn giao thông. Một thống kê năm 2016 cho biết Việt Nam có gần 51 triệu phương tiện giao thông được đăng ký, và 93% số này là xe hai và ba bánh. Tổng số xe hai bánh tăng lên 65 triệu vào năm 2020. Ngoài ra, còn khá nhiều xe hai bánh không được đăng ký. Nghĩa là với số dân 96 triệu, cứ ba người thì có hai người sở hữu một chiếc xe máy.Điều đáng chú ý là hơn 80% xe máy ở Việt Nam cũng như các nước khác trong Khu vực Đông Nam Á thuộc loại “động cơ dung tích nhỏ” dưới 150 cc. Số lượng xe máy dường như có mối liên hệ thuận với mức độ các trường hợp tử vong do giao thông đường bộ trong các xã hội được mô tả trong Hình 4. Cứ mỗi dặm (1,6 km) xe đi, người đi xe máy có nguy cơ tử vong trong một vụ tai nạn cao hơn 34 lần so với những người điều khiển các loại phương tiện cơ giới khác và họ cũng có nguy cơ bị thương cao hơn 8 lần . Sự phổ biến và tăng trưởng của xe máy, đặc biệt là xe máy động cơ nhỏ, đặt ra hai mối quan tâm lớn của công chúng đối với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Thứ nhất, xe máy được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, một số mục đích sử dụng có rủi ro cao hơn, bao gồm chở nhiều hành khách và các phương tiện thương mại công cộng (xe ôm và kinh doanh logistic). Nguy cơ chấn thương có thể còn cao hơn ở những người đi xe mô tô động cơ nhỏ và chở thêm hành khách.
Thứ hai, sự phát triển của các tiêu chuẩn và quy định an toàn để bảo vệ người dùng không thể theo kịp tốc độ phát triển của thị trường. Vì vậy, giải quyết những rủi ro liên quan đến xe mô tô động cơ nhỏ là bản chất tất yếu của việc thúc đẩy an toàn giao thông đường bộ trong Khu vực Đông Nam Á.
Quảng cáo
Các yếu tố nguy cơ đối với xe máy: Chúng ta biết gì?
Các yếu tố rủi ro có thể thay đổi được đối với xe máy được phân thành ba nhóm: kết cấu hạ tầng đường bộ an toàn hơn, người sử dụng có ý thức về an toàn cao hơn, và phương tiện giao thông an toàn hơn. Trong số này, các yếu tố rủi ro chính được xác định liên quan đến sự an toàn của xe máy, cũng như các lựa chọn can thiệp, được trình bày trong bảng dưới đây. Độ ổn định khi vận hành của xe máy thường bị bỏ qua, mặc dù chúng ta có sẵn công nghệ và bằng chứng vững chắc về hiệu quả của công nghệ. Công nghệ có thể giải quyết cả xác suất và mức độ nghiêm trọng của các vụ va chạm xe máy, đặc biệt khi gặp điều kiện đường xá nguy hiểm dẫn đến mất kiểm soát.Hết Phần 1.
Phần 2: Có thể ngăn ngừa ⅓ số ca tử vong với ABS.